Thoáng nghĩ về cỏ

Văn hóa - Ngày đăng : 15:09, 21/04/2023

Tôi sinh ra như cỏ. Tôi lớn lên cùng cỏ. Thuở tôi mới nhận biết được xung quanh, có cỏ. Lớn lên, theo mẹ ra vườn, nhặt cỏ. Lớn lên chút nữa, ra đồng cắt cỏ chăn trâu. Xung quanh tôi mượt mà cỏ, bời bời cỏ.

Tôi sống đến ngày hôm nay, cũng nhờ cỏ. Hồi phổ thông cơ sở, khi hết giờ ra chơi, tôi chạy ào ào vào lớp. Không may khi băng qua một miệng giếng, do bom Mỹ ném vỡ một mảng từ trước, tôi đạp chân lên phần cỏ nhưng phía dưới đã lở hàm ếch. Tôi rơi xuống giếng, uống no nước. Trong lúc "giã gạo"- phản ứng tự nhiên, tay tôi vứ được một cọng cỏ. Tôi đã ngoi lên được và thoát chết.

1000_f_72665840_q9rddqbrf2jfrs1zfa65fgcp7z1abtor.jpeg

Vâng, cỏ. Cỏ hay còn gọi là đám cỏ, bụi cỏ là những loài thực vật thuộc bộ Hoà thảo mọc dại. Cỏ có nhiều loại. Thuở bé, đi nhặt cỏ với mẹ, tôi nhớ có cỏ năn, cỏ thia, cỏ gấu, cỏ may, cỏ mật,... Trẻ con nhà quê, hẳn không ai quên trò chơi "chọi cỏ"...

Rất nhiều nhà thơ đương đại mà tôi biết, có thi phẩm về cỏ. Các nhà thơ gần gũi như Hoàng Vũ Thuật có "Anh thuộc về cỏ", Trần Quang Quý có "Ru cỏ", Trần Chấn Uy có "Cỏ ơi", Lê Thành Nghị có "Trong cỏ",...

Vừa qua, tôi được nhà thơ Trương Nam Hương tặng tập thơ "Trời nắng xanh và những bài thơ khác". trong tập này có 3 bài về cỏ, tôi thích qúa. Đó là các bài "cỏ và em", "Thoáng nghĩ về cỏ", "Góc cỏ".

Qua liếp cỏ nhà thơ Trương Nam Hương nhìn thấy cả tiểu vũ trụ, đến đại vũ trụ; sự cân bằng và nghịch lý. Trai gái nào yêu nhau không một lần ngồi trên cỏ, nằm trên cỏ... ngắm sao trời, đếm gió... và trao nhau những nụ hôn của "thời bí ẩn" thì thật là tiếc.

"Hai chỗ ngả đầu yên ả nhất/ Cỏ với em những lúc vui buồn/ Cũng may đêm ấy trăng sao nhắc/ không lại dìm nhau xuống đáy thương" (Cỏ và em).

Cỏ luôn là nhân chứng, khi nồng nàn  lúc hờn dỗi. Cỏ biết, nụ hôn nào trinh khiết, nụ hôn nào "lấm mùi mặc cả". Thời vật chất lên ngôi, tình yêu thường phải quỳ gối trước vật chất, nên "nụ hôn nấm mùi mặc cả đấy", không còn tình yêu đúng nghĩa là điều đáng tiếc. Hẳn nhiên, chẳng ai hiểu thế nào là tình yêu. Vì thế mới sinh ra thi ca, tồn tại thi ca trong cõi đời. Một trong những thiên chức của thi ca là giải mã về cái đẹp mà tình yêu là một trong những “thiên sứ” của cái đẹp.

Chính nhà thơ Trương Nam Hương nói rõ điều này: “Người ta nói yêu nhau, yêu và hôn trên cỏ/Người ta nói chia ly, nói những điều đổ vỡ/Cỏ lắng lòng nghe hết – Thản nhiên xanh” (Thoáng nghĩ về cỏ)

Ở bài thơ này, cỏ ngồi lên thành triết lý “Lịch sử bước qua những vương triều vong thịnh/Cỏ đã đắp lên vua, cỏ đã trùm lên lính/Cỏ công bằng nhân ái – Thản nhiên xanh” (Thoáng nghĩ về cỏ). Thế giới cỏ hoa trong thơ Trương Nam Hương có sứ mệnh “thản nhiên xanh”, minh triết.

Vâng, cỏ. Trong Truyện Kiều, Đại thi hào Nguyễn Du đã sử dụng cỏ như một phương tiện nghệ thuật hết sức mầu nhiệm “Cỏ non xanh rợn chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Cỏ qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du còn biến hóa khôn lường trong Truyện Kiều. Màu cỏ vừa là màu không gian, vừa là màu thời gian, vừa là màu số phận, tâm trạng.

Các nhà thơ hiện đại sau này có những câu thơ khá hay về cỏ như: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” (Hàn Mặc Tử), “Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh” (Nguyễn Bính), “Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên” (Chế Lan Viên)... Cỏ trong thơ Trương Nam Hương hiện lên ám ảnh: “.../Cao hơn mọi khổ đau, cao hơn nhiều hạnh phúc/Cỏ biếc như niềm vui, cỏ xanh như nước mắt/ Vẫn nhận mình thấp bé – Thản nhiên xanh” (Thoáng nghĩ về cỏ)

Thời phong kiến, người ta đã dùng từ “thảo dân” để nói về những người dân “dân ấp, dân dân” (Nguyễn Đình Chiểu). Dân như cỏ, “thấp bé” – lớp người cuối cùng, cơ bản của “xã hội người”, đông đảo, luôn “thản nhiên xanh”; trường tồn, dẫu nước mắt hay niềm vui đều biếc xanh. Không ai thay thế được dân. “Trong bầu trời này không gì quý bằng nhân dân” (Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh). Cỏ trong cõi Phật vì thế dạy con người về đạo lý, về cân bằng của vĩnh cửu.

“Nước Việt Nam muôn ngàn cây lá khác nhau, cây nào cũng đẹp cây nào cũng quý” (Thép Mới). Đến cây cỏ trong muôn ngàn cây lá, nhiều loại cỏ là vị thuốc Nam quý như cỏ may, cỏ mật, cỏ xước... Thuở hồng hoang, con người đã biết dùng cỏ làm khố che thân; thời Tây Sơn, nghĩa quân Quang Trung đã biết dùng cỏ bện thành giày, dép hành quân ra Bắc diệt nhà Thanh xâm lược...

1000_f_218496887_9siucrosgx94qot4dgsdphfe6pk0pwdp.jpeg

Thời đấu tranh giải phóng dân tộc, cỏ được kết thành bè che cho bộ đội bơi qua sông... Thời đó, lời dặn dò người lính “Một xanh cỏ, hai đỏ ngực” trước khi ra trận, nay đã thành thành ngữ. Bài hát “Cỏ non Thành cổ” (Tân Huyền), mãi mãi là bài hát thiêng liêng, xúc động mỗi dịp kỷ niệm Ngày Thương binh liệt sỹ (27/7).

Thời còn bé, tôi thường săn cá thia lia dưới những đám có mép ruộng. Tức là cỏ đấy, nó làm giảm tác động của ánh nắng mặt trời đến hệ sinh vật và vi sinh vật đất, tạo môi trường sống và phát triển cho các vi sinh vật trong đất... Thật nhiều tác dụng.

Bây giờ về thôn dã đã hiếm cỏ. Trai gái yêu nhau dẫm nát cỏ bên đường chỉ còn trong hoài niệm. Trên các cánh đồng làng cũng đã ít cỏ, vì hệ thống thủy lợi cũng đã được bê tông; con người từ lâu đã dùng thuốc diệt cỏ tràn lan. Nhiều giống cỏ đã vĩnh viễn không bao giờ nhìn thấy. Tự nhiên vốn cân bằng vĩnh cửu, nhưng con người đã và đang tàn phá, thu hẹp không gian sống của mình.

“Người ta cuốc cỏ lên, người ta trồng cỏ xuống/Hết thảy nỗi bi quan, hết thảy niềm hy vọng/Cỏ nhận về đau ấy – Thản nhiên xanh” (Thoáng nghĩ về cỏ). Cỏ trong thơ Trương Nam Hương, có thông điệp tư tưởng, giá trị bất biến. Cỏ mãnh liệt và bất diệt!

Ngô Đức Hành