Hội nhập quốc tế, đưa đất nước vào vị trí tối ưu
Thời sự - Logistics - Ngày đăng : 16:41, 02/08/2023
3 chuyển biến lớn mà kết quả triển khai Nghị quyết 22 mang lại.
Tại Phiên họp lần thứ nhất của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án "Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế", Thủ tướng Phạm Minh Chính khái quát 3 chuyển biến lớn mà kết quả triển khai Nghị quyết đã mang lại.
Thứ nhất là chuyển biến lớn về nhận thức. Theo đó, hội nhập quốc tế đã trở thành "sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị"; thực sự trở thành "định hướng chiến lược lớn" của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thứ hai là chuyển biến lớn về hành động, từ hội nhập kinh tế quốc tế là chủ yếu sang hội nhập quốc tế chủ động, toàn diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, an ninh-quốc phòng, kinh tế, văn hóa-xã hội; từ tham gia là chủ yếu sang chủ động, tích cực đề xuất sáng kiến, xây dựng và định hình luật chơi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Thứ ba, từ chuyển biến về nhận thức và hành động đó đã dẫn đến những kết quả rất rõ nét trong nâng cao vị thế, tiềm lực đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế...
Đến nay, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 nước. Từ năm 2013 đến nay, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ với 7 nước lên Đối tác chiến lược hoặc Đối tác chiến lược toàn diện và 7 nước lên Đối tác toàn diện góp phần tạo ra mạng lưới Đối tác chiến lược/Đối tác toàn diện với 33 nước, trong đó có tất cả các nước lớn.
Việt Nam đã chính thức tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình; ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với sự tham gia của khoảng 60 nền kinh tế. Năm 2022, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 730 tỷ USD. Thương hiệu quốc gia Việt Nam có tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh nhất thế giới trong giai đoạn 2019-2022, năm 2022 đạt 431 tỷ USD...
Theo số liệu của Bộ Công Thương, 7 tháng đầu năm 2023 tiếp tục ghi nhận mức xuất siêu kỷ lục 15,23 tỷ USD), góp phần nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, còn những mặt tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai hội nhập của chúng ta còn chưa cao. Vai trò của Nhà nước trong khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia hội nhập có lúc chưa thực sự hiệu quả. Việc triển khai các thỏa thuận, cam kết quốc tế của chúng ta còn hạn chế.
Cùng với đó, mức độ vươn ra thế giới, tỉ lệ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam còn khiêm tốn. Dù sức mạnh tổng hợp quốc gia của chúng ta có tăng lên nhưng nhiều chỉ số, thứ bậc về năng lực cạnh tranh quốc gia, chất lượng tăng trưởng của Việt Nam so với các nước ASEAN không có nhiều thay đổi sau 10 năm. Chất lượng nguồn nhân lực, mức độ kết nối giữa các khu vực kinh tế FDI và quốc nội; liên kết giữa các vùng, miền trong nước chưa đạt như kỳ vọng.
Kết hợp chặt chẽ giữa hội nhập kinh tế với hội nhập toàn diện
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương, để nâng cao hiệu quả hội hội nhập quốc tế, với ngành Công Thương có 5 nhiệm vụ cần phải làm.
Thứ nhất, chủ động nắm chắc tình hình những biến động kinh tế thế giới và khu vực, những chính sách mới của các nước lớn và các nước nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam; tăng cường và nâng cao năng lực công tác dự báo, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả để tham mưu, đề xuất các đối sách, giải pháp phù hợp, khả thi.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thể chế, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, bảo đảm đồng bộ, khả thi để thực hiện đầy đủ, tương thích với các nghĩa vụ và cam kết hội nhập KTQT, đặc biệt với các FTA thế hệ mới theo lộ trình đã đề ra. Tận dụng tối đa không gian chính sách mà Việt Nam được phép trong các cam kết để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể của Việt Nam và tạo cơ sở phát triển các ngành, lĩnh vực SXKD mới, phù hợp với xu thế phát triển của Kinh tế số, Cách mạng Công nghiệp 4.0, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia vào chuỗi SX, cung ứng toàn cầu.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng Chiến lược mới về tham gia các hoạt động thương mại tự do theo hướng tham gia có chọn lọc và thực thi có hiệu quả các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới nhằm thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế theo chiều sâu, hiệu quả, thiết thực gắn với bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Khẩn trương kết thúc đàm phán, sớm ký kết FTA với UEA; khởi động đàm phán các FTA mới với các đối tác còn nhiều tiềm năng ở khu vực Châu Phi, Nam Á, Tây Á và Nam Mỹ, tạo dư địa cho hàng hóa Việt Nam xâm nhập vào các thị trường này; đồng thời, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các FTA mà Việt Nam là thành viên để mở rộng, đa dạng hoá thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu bền vững.
Thứ ba, tiếp tục phát huy tốt vai trò của hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường và các quy định, chính sách mới của các nước sở tại; cảnh báo sớm các “rào cản” mới của đối tác và các vụ kiện thương mại, giúp cho các cơ quan QLNN và doanh nghiệp có phản ứng chính sách phù hợp; đồng thời, tăng cường công tác phòng vệ thương mại, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ giữa hội nhập kinh tế với hội nhập toàn diện trên các lĩnh vực về: Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng và các vấn đề về xã hội như lao động, công đoàn… tạo mối quan hệ gắn kết hài hòa giữa các lĩnh vực hội nhập, trong đó phát huy vai trò trọng tâm của hội nhập trong lĩnh vực kinh tế để phát huy sức mạnh tổng thể, đóng góp vào quá trình phát triển chung của đất nước.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông, tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về hội nhập quốc tế cũng như ý nghĩa, vai trò, thời cơ, thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo đồng thuận xã hội trong tổ chức thực hiện.
Nguồn: VGP, Trang Web Bộ Công Thương