Chuỗi cung ứng tinh gọn – linh hoạt: Phối hợp để nhanh hơn, hiệu quả hơn

Thời sự - Logistics - Ngày đăng : 08:08, 23/09/2025

Khi sự linh hoạt chạm đáy hiệu quả. Sự kết hợp song trùng giữa tinh gọn và linh hoạt là hướng đi giúp chuỗi cung ứng nâng chuẩn dịch vụ mà vẫn kỷ luật chi phí.
p2.jpg
Cần suy tư, tính toán cho sự  kết hợp song trùng giữa tinh gọn và linh hoạt là hướng đi giúp chuỗi cung ứng nâng chuẩn dịch vụ mà vẫn kỷ luật chi phí.

Giới thiệu tinh gọn và linh hoạt
Trong nhiều năm, tinh gọn được xem như kim chỉ nam cho chuỗi cung ứng: loại bỏ lãng phí, chuẩn hóa quy trình, cân bằng dòng chảy vật tư, vận hành theo nhịp sản xuất và dự báo ổn định. Triết lý này đặt mục tiêu hạ chi phí trên mỗi đơn vị, rút ngắn thời gian chu kỳ, giảm tồn kho và sai lỗi. Ngược lại, tiếp cận linh hoạt đặt trọng tâm vào khả năng phản ứng trước biến động: cầu lên xuống đột ngột, sự cố vận tải, thay đổi thiết kế, cú sốc địa chính trị hay chính sách. Chuỗi cung ứng linh hoạt chấp nhận một mức “dư địa” về công suất, nhà cung cấp, tuyến vận chuyển để có thể bẻ lái nhanh khi môi trường đổi thay. Hai cách tiếp cận tưởng đối lập nhưng thực ra bổ sung cho nhau. Tinh gọn giúp chuỗi ổn định, ít lãng phí; linh hoạt bảo vệ chuỗi trước biến động. Khi thị trường biến động cao và vòng đời sản phẩm ngắn lại, chỉ theo đuổi một phía thường đưa doanh nghiệp vào cực đoan: hoặc rẻ mà chậm, hoặc nhanh mà đắt. Vì thế, câu chuyện của 2025 không còn là chọn tinh gọn hay linh hoạt, mà là phối hợp có chủ đích giữa hai chiến lược này.

Khi nào dùng tinh gọn, khi nào cần linh hoạt
Tinh gọn phát huy mạnh ở những dòng sản phẩm có nhu cầu dự báo tương đối ổn định, độ biến thiên thấp theo mùa, cấu hình ít thay đổi và chu kỳ đặt hàng đều đặn. Ở bối cảnh này, việc chuẩn hóa thao tác, áp dụng nhịp sản xuất cố định, thiết kế tuyến kho – bãi theo luồng một chiều, triển khai kéo vật tư theo thẻ tín hiệu và chia nhỏ lô hàng để chảy đều trong ngày sẽ tạo ra hiệu quả vượt trội. Tinh gọn cũng phù hợp khi doanh nghiệp có hệ thống công nghệ thông tin nhất quán, dữ liệu làm sạch tốt và nhà cung cấp sẵn sàng chia sẻ tiến độ theo mốc. Lợi ích đo được là thời gian chu kỳ giảm, tỷ lệ đúng hẹn tăng, tồn kho an toàn hạ, tỷ lệ lỗi chất lượng thấp hơn.

Linh hoạt trở nên cần thiết khi độ bất định của thị trường cao, mức tùy biến sản phẩm lớn, rủi ro nguồn cung tăng, hoặc chuỗi cung ứng trải dài qua các nút thắt dễ đứt gãy. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp phải chấp nhận các cơ chế “đệm” có kiểm soát: song nguồn hoặc đa nguồn cho linh kiện chủ chốt, hợp đồng vận tải có điều khoản chuyển hướng, kho trung gian gần thị trường tiêu thụ, công suất dự phòng theo mùa, đội robot kho có thể tái cấu hình theo giờ, và năng lực chuyển đổi phương thức vận tải khi cần. Linh hoạt cũng gắn với năng lực ra quyết định gần thời gian thực dựa trên tín hiệu sự kiện thực tế như vị trí tàu, slot cảng, tốc độ thông quan, trạng thái cổng kho. Lợi ích của linh hoạt không nằm ở chi phí thấp nhất ngay lập tức, mà ở việc bảo vệ doanh thu biên, giữ tỷ lệ giao đúng khi thị trường “sốc”, qua đó giảm chi phí do hủy đơn, lưu bãi, tồn kho cứu nguy.

Một cách thực dụng để chọn mức độ tinh gọn hay linh hoạt là phân khúc danh mục theo hai trục: biến động nhu cầu và tác động kinh tế khi trễ. Những dòng có nhu cầu ổn định và tác động kinh tế khi trễ thấp thì tối ưu tinh gọn là chủ đạo. Những dòng có nhu cầu khó đoán và tác động khi trễ cao, như sản phẩm mùa vụ hay linh kiện then chốt, nên ưu tiên linh hoạt với khung chi phí trần rõ ràng. Phần còn lại rơi vào vùng lai, vừa áp dụng kỷ luật tinh gọn ở công đoạn lặp lại, vừa cài đặt cơ chế linh hoạt ở điểm giao nhau với thị trường.

Mô hình lai: lát cắt từ ngành ô tô và điện tử
Ngành ô tô là ví dụ điển hình của tinh gọn ở tầng nền và linh hoạt ở tầng ứng phó. Ở khâu dập, hàn và sơn, nhịp sản xuất ổn định, tiêu chuẩn thao tác ngặt nghèo, tồn bán thành phẩm được khống chế theo giờ. Tuy nhiên, với linh kiện điện tử, ắc quy cho xe lai điện, ghế theo gói cá nhân hóa, nhà máy thường dùng cơ chế song nguồn có phân bổ khối lượng linh hoạt theo tuần, kèm kho đệm gần nhà máy lắp ráp. Khi có biến động nguồn cung, trung tâm điều phối kích hoạt chuyển hướng bằng cách đổi nhà cung cấp theo tỷ lệ đã thỏa thuận, điều chỉnh nhịp lắp ráp ở các biến thể xe ít ảnh hưởng doanh thu và ưu tiên biến thể bán chạy. Nhờ vậy, nhà máy giữ được nhịp chung tinh gọn, nhưng vẫn bẻ lái cục bộ để bảo toàn tỷ lệ giao đúng.

Ngành điện tử tiêu dùng cho thấy một lát cắt khác. Ở phần cứng tiêu chuẩn như bo mạch, vỏ máy, dây cáp, doanh nghiệp áp dụng tinh gọn, ký hợp đồng khung, kéo vật tư theo tín hiệu tiêu thụ thực tế, tối ưu đóng gói và tải trọng để hạ chi phí vận chuyển. Nhưng với màn hình, vi xử lý, bộ nhớ vốn nhạy cảm nguồn cung, chuỗi chuyển sang linh hoạt: đặt chỗ công suất trước mùa cao điểm, duy trì hai phương án vận tải đường biển và đường hàng không, mở sẵn cửa đệm tại một số trung tâm phân phối gần thị trường để “đi thẳng” khi đơn hàng bùng nổ. Trong bán lẻ điện tử, hệ thống kho hàng thương mại điện tử thường xây lớp trạm trung chuyển đô thị có thể bật mở theo tuần. Lớp này tăng chi phí đơn vị, nhưng cắt đáng kể thời gian giao ở giai đoạn cao điểm, qua đó bảo vệ xếp hạng sàn bán và doanh thu phụ trợ.

Mô hình lai đòi hỏi ngôn ngữ chung về quyết định. Ở tầng chiến lược, doanh nghiệp đặt ra ngưỡng cho phép: mức trễ tối đa theo tuyến, tồn an toàn theo nhóm sản phẩm, trần chi phí bổ sung khi chuyển phương thức vận tải. Ở tầng vận hành, hệ thống điều phối nhận tín hiệu theo thời gian gần thực, tự gợi ý ba phương án hành động với ước tính tác động lên thời gian dẫn, tỷ lệ đầy đơn và chi phí biên. Người phụ trách lựa chọn theo trọng số đã được quản trị cấp cao phê duyệt. Sau mỗi lần kích hoạt, hệ thống đo lường tác động thật và học để tinh chỉnh ngưỡng. Cách làm này giúp tinh gọn và linh hoạt không giẫm chân nhau, mà hòa vào một chu trình đo – quyết – thực thi – kiểm chứng.

Yêu cầu tổ chức và dữ liệu để phối hợp hai chiến lược
Phối hợp tinh gọn và linh hoạt không chỉ là kỹ thuật quy trình, mà còn là năng lực tổ chức. Trước hết, phải có dữ liệu sạch và kịp thời ở các điểm chạm: đơn bán, dự báo, tồn vị trí, kế hoạch sản xuất, vị trí vận tải, cửa cắt bãi, trạng thái cổng kho. Dữ liệu cần được chuẩn hóa mã, đơn vị đo, thời gian cập nhật và có nhật ký thay đổi. Tiếp đến là bộ quy tắc ra quyết định có thể kiểm toán: nếu trễ bao nhiêu giờ thì chuyển phương án nào, chi bao nhiêu là trần, ưu tiên đơn hàng nào, ai có quyền phê duyệt ở mức ngoại lệ. Ở lớp con người, tổ chức cần đội ngũ có khả năng đọc bảng chỉ số theo ca, điều tra nguyên nhân gốc, và kỹ năng phối hợp đa bộ phận giữa mua hàng, sản xuất, kho vận, kinh doanh. Văn hóa an toàn và không đổ lỗi giúp các cảnh báo gần va chạm được báo sớm, từ đó tinh chỉnh quy trình hoặc bố trí lại mặt bằng, ca kíp. Công nghệ tự động hóa trong kho như xe tự hành và hệ thống lưu trữ – bốc dỡ tự động có thể tái cấu hình theo giờ sẽ là bệ đỡ tốt cho linh hoạt, miễn là được điều phối bằng hệ thống thực thi mạnh và dữ liệu nền đáng tin.

p3.jpg
Công nghệ tự động hóa trong kho như xe tự hành và hệ thống lưu trữ – bốc dỡ tự động có thể tái cấu hình theo giờ sẽ là bệ đỡ tốt cho linh hoạt

Đo lường để không lạc lối
Không có đo lường, mô hình lai dễ rơi vào cảm tính. Nhóm chỉ số cốt lõi cần theo dõi gồm thời gian chu kỳ từ đặt hàng đến giao, độ đúng hẹn theo tuyến, biến thiên thời gian giao, chi phí phục vụ trên mỗi dòng đơn, tỷ lệ đầy đơn, tỷ lệ hủy do trễ, mức tồn an toàn bình quân và số lần phải dùng phương án đặc biệt như vận tải đường không. Ở chiều tinh gọn, doanh nghiệp nhìn vào tỷ lệ lãng phí bị loại, năng suất theo giờ, lỗi chất lượng; ở chiều linh hoạt, theo dõi thời gian phát hiện – quyết định – triển khai – phục hồi, cùng doanh thu biên được bảo toàn. Báo cáo nên tách theo nhóm sản phẩm để tránh bù trừ chéo, và có phần đánh giá sau sự kiện để điều chỉnh ngưỡng, cập nhật quy tắc. Khi các chỉ số được công bố định kỳ, tranh luận trong tổ chức chuyển từ ý kiến sang bằng chứng.

Từng bước triển khai trong 90 ngày
Một lộ trình thực tế bắt đầu bằng rà soát danh mục theo hai trục biến động nhu cầu và tác động kinh tế khi trễ, lập bản đồ nơi nào nên tinh gọn mạnh, nơi nào cần thêm cơ chế linh hoạt và nơi nào áp dụng lai. Tiếp theo, chọn một hành lang cung ứng và một nhóm sản phẩm để thí điểm mô hình lai. Chuẩn hóa dữ liệu nền, xác định ngưỡng quyết định, thống nhất trần chi phí và người phê duyệt. Thiết kế lại luồng kho bãi ở mức tối thiểu để giảm nút thắt, áp dụng quy tắc an toàn và đường đi riêng giữa người và thiết bị. Tổ chức diễn tập ngắn tình huống đứt gãy theo tháng, đo thời gian phản ứng, so sánh phương án đã kích hoạt với hai phương án thay thế còn lại để rút kinh nghiệm. Sau 90 ngày, tổng kết bằng con số và quyết định mở rộng hay tinh chỉnh.

Tinh gọn tập trung hạ chi phí bằng loại bỏ lãng phí và chuẩn hóa dòng chảy, linh hoạt tập trung phản ứng nhanh trước biến động và bảo toàn doanh thu biên, kết hợp hai cách tiếp cận mở ra tối ưu toàn diện khi chuỗi vừa giữ kỷ luật hiệu quả vừa chủ động bẻ lái đúng lúc.

Trong bối cảnh biến động kéo dài, lựa chọn giữa tinh gọn và linh hoạt đã lỗi thời. Doanh nghiệp cần một kiến trúc vận hành biết khi nào giữ nhịp chuẩn, khi nào mở “đệm” có kiểm soát, và khi nào bẻ lái theo tín hiệu sự kiện thực. Điều kiện tiên quyết là dữ liệu sạch, quy tắc rõ, vai trò – quyền hạn minh bạch và kỷ luật đo lường. Bằng cách phối hợp hai chiến lược, chuỗi cung ứng không chỉ hạ chi phí bình quân mà còn giảm chi phí rủi ro, nâng tỷ lệ giao đúng và tăng sức chịu đựng trước sự cố. Khi tinh gọn và linh hoạt không còn là hai cực kéo ngược, mà là hai mặt của một hệ vận hành thông minh, doanh nghiệp sẽ bứt khỏi chiếc bẫy “rẻ mà chậm” hay “nhanh mà đắt”, tiến tới một chuẩn mới: nhanh đúng và hiệu quả bền vững.

Hà Lê