Thương mại – tài chính: sức bật mới của siêu đô thị TP. Hồ Chí Minh

Toàn cảnh Kinh tế - Ngày đăng : 08:00, 01/10/2025

TP. Hồ Chí Minh hiện đang định hình một hệ sinh thái thương mại – tài chính đồng bộ, kết nối các cực tăng trưởng công nghiệp – cảng biển – dịch vụ trong vùng Đông Nam Bộ với mạng lưới thị trường trong nước và quốc tế. Động lực mới này giúp thành phố hướng tới vai trò trung tâm tài chính – thương mại hàng đầu Đông Nam Á, với trụ cột là cải cách thể chế, số hóa mạnh mẽ và hạ tầng logistics quy mô lớn.

Từ chợ truyền thống đến trung tâm thương mại thông minh

Sự mở rộng không gian đô thị sau sáp nhập đã làm thay đổi cấu trúc bán lẻ của TP. Hồ Chí Minh mới: các chợ truyền thống tiếp tục đóng vai trò hạ tầng thương mại cơ bản, trong khi các trung tâm thương mại thông minh, đại siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện lợi và “trung tâm trải nghiệm” (experience center) phát triển nhanh theo hướng tích hợp số. Ở khu lõi đô thị, mô hình bán lẻ dựa trên dữ liệu (data-driven retail) được áp dụng để tối ưu hàng hóa, giá cả, trưng bày và dòng khách; còn ở các vành đai công nghiệp – đô thị như Phú Mỹ, Cái Mép – Thị Vải (Bà Rịa – Vũng Tàu trước đây) hay Thuận An, Dĩ An (Bình Dương trước đây), bán lẻ bám theo khu công nghiệp – khu ở công nhân, hình thành các “điểm bán lẻ công nghiệp” (industrial retail nodes) với dịch vụ tài chính nhỏ lẻ, giao nhận nhanh và tiện ích ăn uống – giải trí.

Điểm khác biệt của chuỗi bán lẻ giai đoạn mới là sự đan cài giữa chợ – siêu thị – cửa hàng tiện lợi – thương mại điện tử. Chợ truyền thống được cải tạo hạ tầng vệ sinh, phòng cháy, chuẩn hóa truy xuất nguồn gốc; sạp hàng áp dụng thanh toán số, đặt hàng trước, giao nhanh trong ngày. Các trung tâm thương mại thông minh bắt đầu dùng phân tích hành vi khách, hệ thống quản trị năng lượng, robot kiểm kê, chuẩn ESG cho vận hành xanh.

Tài chính – ngân hàng: động lực thu hút vốn quốc tế

Khi phạm vi đô thị – công nghiệp mở rộng, nhu cầu vốn trung dài hạn cho hạ tầng, năng lượng, khu công nghiệp – đô thị tăng mạnh. TP. Hồ Chí Minh mới chủ động cấu trúc lại hệ sinh thái tài chính: ngân hàng thương mại đẩy mạnh tín dụng xanh, tài trợ thương mại; công ty chứng khoán phát triển sản phẩm nợ doanh nghiệp gắn chuẩn công bố thông tin; quỹ đầu tư, quỹ hưu trí và bảo hiểm mở rộng phân bổ vào hạ tầng – năng lượng – logistics; fintech – paytech phát triển các nền tảng thanh toán, chấm điểm tín dụng dựa dữ liệu lớn phục vụ bán lẻ và MSME.

Dòng vốn quốc tế nhìn thành phố qua ba “bộ lọc”: năng lực hạ tầng, chất lượng quy hoạch và ổn định thể chế. Việc hình thành các khu tài chính – thương mại chuyên đề tại Thủ Đức, trung tâm logistics – cảng biển Cái Mép – Thị Vải, và mạng lưới khu công nghiệp công nghệ cao ở Bình Dương trước đây đã tạo “bản đồ tài sản” hấp dẫn cho nhà đầu tư tổ chức. Cùng lúc, chương trình cải cách thủ tục hành chính, thí điểm cơ chế một cửa số, và chủ trương lựa chọn dự án FDI/ DDI không thâm dụng lao động, công nghệ sạch tạo khung rủi ro – lợi nhuận rõ ràng hơn cho vốn ngoại.

Ở tầng vi mô, doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng đang tận dụng dịch vụ tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh, hoán đổi rủi ro tỷ giá – lãi suất, tín dụng carbon và bảo hiểm hàng hải. Các ngân hàng số đẩy mạnh ngân hàng giao dịch (transaction banking) tích hợp ERP – hóa đơn điện tử – thu/chi tự động, giúp doanh nghiệp tối ưu vốn lưu động. Sự kết hợp giữa tài chính truyền thống và công nghệ tài chính tạo ra môi trường “vốn thông minh” (smart capital), tăng tốc đổi mới sáng tạo và chuẩn hóa quản trị theo thông lệ quốc tế – điều kiện tiên quyết để thành phố vươn vai trung tâm tài chính khu vực.

Thương mại điện tử – kênh tăng trưởng mới

Quy mô dân số lớn, mật độ doanh nghiệp dày và hạ tầng giao vận liên vùng giúp thương mại điện tử trở thành kênh tăng trưởng tự nhiên. Sau sáp nhập, biên giới hành chính giữa trung tâm TP. HCM – Bình Dương cũ – Bà Rịa – Vũng Tàu cũ mờ đi trong vận hành cung ứng: kho liên vùng đặt dọc cao tốc và vành đai, hub trung chuyển gần cảng biển – sân bay, đội xe tải – xe máy giao nhanh phủ đến các khu dân cư – khu công nghiệp. Các sàn TMĐT nội – ngoại, nhà bán hàng thuần số và hệ thống bán lẻ truyền thống đều đẩy chiến lược “omni-channel”: mua online, nhận hàng tại cửa hàng; đặt qua app; trả góp – ví điện tử; đổi trả liên thông.

Điểm thay đổi quan trọng là thương mại xuyên biên giới: doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể xuất khẩu trực tiếp qua nền tảng số, sử dụng dịch vụ fulfillment tại cảng hoặc kho ngoại quan, hoàn thuế – hải quan điện tử, thanh toán quốc tế thuận tiện. Ngành hàng tăng nhanh gồm thực phẩm chế biến an toàn, thời trang – phụ kiện tầm trung, thiết bị – linh kiện điện tử, sản phẩm chăm sóc sức khỏe – sắc đẹp, và dịch vụ du lịch – giải trí. Các mô hình bán D2C (direct-to-consumer) và xã hội thương mại (social commerce) phát triển nhanh, đòi hỏi doanh nghiệp đầu tư nội dung – hình ảnh – quản trị cộng đồng, đồng thời chuẩn hóa chất lượng, truy xuất nguồn gốc.
Khía cạnh quản trị rủi ro cũng được chú trọng: chống gian lận giao dịch, bảo vệ dữ liệu cá nhân, kiểm soát hàng giả – hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ, bảo đảm an toàn thực phẩm. Thành phố thúc đẩy khung tiêu chuẩn cho sàn, triển khai hệ thống giám sát mã vạch, hóa đơn điện tử, kho dữ liệu dùng chung để hài hòa lợi ích người tiêu dùng – doanh nghiệp – nhà quản lý. Từ đó, TMĐT không chỉ là kênh bán hàng, mà là hạ tầng số quan trọng kết nối sản xuất – logistics – tài chính.

Không gian bán lẻ – dịch vụ gắn với chuỗi logistics

Sức mạnh của TP. Hồ Chí Minh nằm ở mối quan hệ hữu cơ giữa bán lẻ – dịch vụ và hạ tầng logistics. Với cụm cảng nước sâu Cái Mép – Thị Vải, sân bay Long Thành (đang bước vào giai đoạn hoàn thiện) và mạng cao tốc – vành đai, thành phố có điều kiện tổ chức các “hành lang dịch vụ – logistics – bán lẻ” theo trục đông – tây, bắc – nam. Trên các trục đó, trung tâm phân phối (DC), kho trung chuyển lạnh, trạm trung chuyển bưu kiện, trung tâm phân loại tự động và “kho trong phố” (micro-fulfillment) được bố trí để rút ngắn last-mile, giảm chi phí, hạ phát thải.

Không gian bán lẻ mới vì thế cũng thay đổi: mặt bằng thương mại trong các dự án TOD (phát triển định hướng giao thông công cộng) ở Thủ Đức, Bình Dương trước đây; dải thương mại – ẩm thực tại các bến thuyền, bến du thuyền ven sông – ven biển; “phố đêm” và không gian sự kiện ngoài trời phục vụ du lịch – người lao động làm ca; các outlet – trung tâm mua sắm giảm giá quy mô vùng gắn với kho phân phối. Chuỗi dịch vụ hỗ trợ – tài chính tiêu dùng, bảo hiểm nhỏ lẻ, chăm sóc xe – thiết bị, y tế – giáo dục tư nhân – cũng mọc lên dọc các hành lang này, tạo lớp giá trị gia tăng dày đặc.

Xu hướng bán lẻ xanh lan tỏa: cửa hàng tiết kiệm năng lượng, tái sử dụng vật liệu, trạm sạc EV, tuyến giao hàng xe điện – xe đạp điện, tái chế bao bì – thu gom hàng trả. Doanh nghiệp áp dụng chuẩn đo lường phát thải phạm vi 3 (Scope 3) trong logistics, từ đó thương mại – dịch vụ của thành phố tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế về bền vững, hỗ trợ xuất khẩu vào các thị trường khó tính. Liên kết chặt chẽ giữa bán lẻ – dịch vụ và logistics giúp thành phố hình thành “chuỗi cung ứng dịch vụ” linh hoạt, chịu đựng tốt biến động và bứt tốc khi cầu tăng.

Sau sáp nhập, TP. Hồ Chí Minh mới không chỉ mở rộng quy mô địa lý mà đang “nâng cấp hệ điều hành” kinh tế của mình. Ở lớp bề mặt là mạng lưới bán lẻ đa kênh nối chợ – siêu thị – trung tâm thương mại thông minh với thương mại điện tử; ở lớp hạ tầng là logistics cảng biển – hàng không – đường bộ – đường thủy nội địa được tổ chức như một mạng lưới liên vùng; ở lớp vốn là hệ sinh thái tài chính – ngân hàng – fintech đang tài chính hóa tài sản thật, đưa dòng tiền dài hạn vào sản xuất – dịch vụ chất lượng cao. Khi ba lớp này vận hành nhịp nhàng trên nền thể chế cải cách và tiêu chuẩn bền vững, TP. Hồ Chí Minh có đủ điều kiện tiến gần vai trò trung tâm thương mại – tài chính hàng đầu Đông Nam Á, đồng thời tạo ra một môi trường sống – làm việc – tiêu dùng hiện đại, văn minh và giàu bản sắc cho hơn chục triệu cư dân và cộng đồng doanh nghiệp toàn cầu.

Minh Long