Kinh tế tri thức: rút ngắn con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thời sự - Logistics - Ngày đăng : 08:00, 01/01/1970
Kinh tế tri thức (Knowledge Economy) mới xuất hiện ở VN trong vài năm gần đây. Loại hình kinh tế này vừa được sinh ra ở những nước công nghiệp phát triển thế giới mấy thập niên qua. Đã có nhiều thuật ngữ liên quan đến kinh tế tri thức được dùng, như: kinh tế dựa trên tri thức (Knowledge-based economy), nền kinh tế công nghệ cao (hight-technology) nền kinh tế mạng (network-economy), nền kinh tế số hóa (digital-economy),…
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế thế giới (OECD) định nghĩa: “Là nền kinh tế mà trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế được gọi là nền kinh tế tri thức”. Tuy nhiên, định nghĩa trên mới chỉ nêu vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối với phát triển kinh tế của loài người, chưa phản ảnh đầy đủ khía cạnh xã hội của nền kinh tế này, song nó vẫn là yếu tố tất yếu của lịch sử nhân loại trong tương lai.
KINH TẾ TRI THỨC LÀ TẤT YẾU LỊCH SỬ
Ở góc độ kinh tế, nếu xét quá trình lịch sử của lực lượng sản xuất, chúng ta thấy rằng hàm lượng tri thức (chất xám) biểu hiện ngày càng rõ rệt và trình độ tri thức ngày càng cao trong việc kiến tạo xã hội loài người, có thể chia làm 3 thời kỳ lịch sử:
Thời kỳ nền kinh tế nông nghiệp
Nền kinh tế nông nghiệp, xuất hiện cách đây khoảng hơn 10 nghìn năm, từ lao động thủ công thời trung cổ, đại công trường thủ công thời phong kiến đến thời phục hưng và hiện nay. Công cụ sản xuất lúc bấy giờ là công cụ thủ công, năng lượng chủ yếu lànăng lượng cơ bắp con người, sức kéo của súc vật và các loại năng lượng sơ cấp khác. Tri thức được sử dụng trong nông nghiệp ở mức độ rất thấp cho nên khoa học – công nghệ (KH-CN) chậm phát triển.
Thời kỳ nền kinh tế công nghiệp
Là thời kỳ diễn ra hai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai của thế giới (từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20). Sản xuất thủ công chuyển sang nền sản xuất dùng máy móc cơ khí, máy mọc điện cơ khí. KH-CN và tri thức của con người được phát triển mạnh mẽ là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội loài người mở rộng. Nhiều nước công nghiệp ra đời. CNTB thịnh hành. Tuy nhiên, nền sản xuất đại công nghiệp chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên thiên nhiên, đặt ra cho loài người nhiều thách thức mới về tài nguyên, môi trường, thị trường, bất bình đẳng xã hội… Trong đó vấn đề cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu tác động đến sinh thái trái đất là những vấn đề cấp thiết của hành tinh xanh.Để giải quyết những vấn đề nêu trên, thì KH-CN và “chất xám” của loài người phải phát triển hơn nữa để đáp ứng yêu cầu mới về đời sống và sản xuất xã hội.
Thời kỳ nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức sinh ra trên cơ sở đồng vốn và tài nguyên thiên nhiên của nền kinh tế công nghiệp, chủ yếu dựa vào “tri thức” con người và KH-CN hiện đại, tạo ra của cải vật chất cho xã hội nhiều hơn, trình độ dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái đi dần vào ổn định. Khởi đầu là cuộc cách mạng KH-CN của thế giới và sự cho ra đời sản phẩm điển hình là máy tính điện tử (điện toán) “computer” vào giữa thế kỷ 20. Đặc trưng của giai đoạn này là phát triển hệ thống công nghệ cao (vi điện tử, máy tính xách tay, điện thoại di động nhiều chức năng, quang điện tử, laze, nanô, gen, tế bào gốc…) cùng với việc xuất hiện truyền thông vệ tinh, mở rộng xa lộ thông tin toàn cầu, cáp quang, truyền hình kỹ thuật số, sử dụng người máy thông minh, máy tính siêu tốc để quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ cuộc sống dân sinh. Nổi bật là tri thức khoa học tự nhiên hòa quyện với tri thức khoa học xã hội thành một thể thống nhất, bảo đảm cho sự tái tạo cuộc sống loài người được bền vững. Vì vậy, sự hình thành kinh tế tri thức mang tính tất yếu lịch sử, cho dù nó có thể phát triển không đồng đều trên trái đất với nhiều sắc thái đa dạng.
Bảng so sánh đặc điểm ba nền kinh tế
RÚT NGẮN CON ĐƯỜNG CNH, HĐH HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Bài học của một số quốc gia tương đồng
Phần Lan trước đây là nước nông - lâm nghiệp thuần túy, kém phát triển ở Bắc Âu. Năm 1950, dân nông thôn chiếm 90% dân số, đến nay chỉ còn 6% và tỷ trọng nông - lâm nghiệp đóng góp cho GDP quốc gia là 3%.Diện tích rừng và ao hồ của quốc gia này chiếm 80% lãnh thổ, thế mạnh trước đây là công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy.
Năm 1980 Phần Lan đi thẳng vào công nghệ cao và phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ. Đến nay trở thành một trong những quốc gia hàng đầu của thế giới về CNTT. Tập đoàn NOIKA chiếm ½ thị phần điện thoại di động trên thế giới, với kim ngạch xuất khẩu khoảng 15% GDP/năm của quốc gia. Những doanh nghiệp của nước này đã đầu tư cho R&D (Research and Development) hàng năm 10% doanh thu, cao gấp đôi các quốc gia châu Âu khác. Phần Lan là nước điển hình có tốc độ chuyển nhanh từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Hàn Quốc,là quốc gia kém phát triển ở châu Á trước đây, trước và trong thế chiến thứ hai (1940-1945) bị Nhật Bản chiếm đóng. Sau đó phải gánh chịu cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai khối Đông - Tây, kết thúc năm 1953, bị tàn phá nặng nề, coi như phải kiến thiết lại từ đầu.
Năm 1970 dân số nông nghiệp chiếm 70% dân số cả nước, nay chỉ còn 6%. Với thế mạnh là nhân công rẻ, lao động cần cù có kỹ năng cao, được Mỹ hỗ trợ tài chính và công nghệ hiện đại lúc ban đầu. Nước này đã đi thẳng vào phát triển công nghiệp nặng, công nghệ cao và dịch vụ tổng hợp hoàn chỉnh. Nét nổi bật là tốc độ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp phụ trợ, nên đã đưa Hàn Quốc từ điểm xuất phát không có gì vào năm 1960, đến năm 1993 trở thành cường quốc hàng đầu thế giới về đóng tàu biển, với hơn 110.000 công nhân chuyên nghiệp và 58 nhà máy đóng tàu tầm cỡ thế giới, đóng được tất cả các chủng loại tàu, có qui mô đến 300.000DWT, năm 2008 doanh thu công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc đạt 43,1 tỷ USD.
Ngoài ra, từ năm 1990, nước này có chiến lược phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông minh. Siêu xa lộ thông tin của Hàn Quốc đã nối kết với 14 triệu gia đình và hầu hết các trường học trong nước, cũng như hòa mạng khắp thế giới.
Đây có thể coi là nước điển hình đã rút ngắn bước phát triển từ kinh tế nông - công nghiệp sang nền kinh tế tri thức bằng con đường tắt nhờ biết sử dụng hiệu quả lao động chất xám và thành quả KH-CN hiện đại, kết hợp nhuần nhuyễn với việc tận dụng thời cơ và sự chuyển động của thế giới đa cực.
Tạo nguồn nhân lực kỹ năng cao để rút ngắn con đường CNH-HĐH
Ngay từ Đại Hội lần thứ 9 (2001), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương từng bước phát triển kinh tế tri thức. Tại Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ X (2006), đã khẳng định: “Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với việc phát triển kinh tế tri thức” và ở Đại Hội XI (2011) đã cụ thể hóa chủ trường này bằng nhiệm vụ cấp bách phải đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng cao cho CNH,HĐH đất nước. Như vậy, chủ trương và đường lối phát triển kinh tế tri thức là nhất quán và xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đến nay, đã xuất hiện những mầm móng cơ bản cho phép thực hiện từng bước quá trình đưa quốc gia tiến dần đến nền kinh tế tri thức, được gắn kết với những thành quả quan trọng thời gian qua, như:Tăng trưởng GDP đều đặn trong hoàn cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng;Sử dụng rộng rãi Internet và điện thoại di động phục vụ dân sinh;Phát triển thông tin và truyền thông vệ tinh, kỹ thuật số, cáp quang;Áp dụng công nghệ mới trong sản xuất công nghiệp. Dùng hệ thống CAM (Computer Aided Manufacture) trong sản xuất cơ khí và hệ thống CAD (Computer Aided Design) trong thiết kế sản phẩm;Riêng cảng biển quốc gia, logistics phát triển bùng nổ đã thúc đẩy tiến trình container hóa bắt nhịp được với các cảng trong khu vực và trên thế giới, bằng ứng dụng hệ thống CMS (Container Management System - Hệ thống quản lý container), hệ thống TOPX (Terminal Operation PacKage - Hệ thống điều hành khai thác tại cầu bến) và hệ thống định vị toàn cầu DGPS để cập nhật container.
Nhìn chung nếu so sánh với các quốc gia Đông Nam Á thì số công nhân tri thức (Knowledge Worker) tham gia trong lực lượng lao động của ta còn quá ít, năm 2000 chỉ đạt 5% so với Malaysia và Thái Lan từ 9-20%. Tuy nhiên, theo nhận xét của Ngân hàng thế giới (WB) thì VN là nước có nhiều tiềm năng đi nhanh đến nền kinh tế tri thức trong những quốc gia đang phát triển.
Đánh giá này vừa tạo ra cho chúng ta sự tự tin, đồng thời cũng buộc chúng ta suy nghĩ mối tương quan giữa VN và các quốc gia láng giềng. Theo thống kê, hiện nay VN có hơn 9.000 GS, PGS và trên 3 vạn TS, nhưng mỗi năm chỉ có khoảng 900 bài báo khoa học trên các tạp san quốc tế. Đó là năng suất cực kỳ khiêm tốn nếu nhìn theo chuẩn mực quốc tế mỗi giáo sư phải có ít nhất 1 bài báo khoa học mỗi năm, chưa kể đến những công trình khoa học cống hiến cho xã hội.
Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) và WB xếp VN đứng 106/145 quốc gia về kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index - KEI). Thứ bậc thấp như vậy là do VN yếu kém về giáo dục và nghiên cứu khoa học mà ai cũng nhận biết.
Trong thế giới ngày nay “giáo dục đào tạo” là vườn ươm hạt giống để logistics hình thành và “xã hội học tập” chính là mảnh đất màu mỡ cho phát triển kinh tế tri thức.Nếu VN phấn đấu nâng cao ngành giáo dục đào tạo hiệu quả hơn và tổ chức tốt xã hội học tập thì có thể rút ngắn con đường CNH, HĐH đất nước.