Các mô hình phân phối trong chuỗi cung ứng

Thời sự - Logistics - Ngày đăng : 08:00, 12/07/2020

(VLR) Trong chuỗi cung ứng, phân phối là động lực chính tạo ra lợi nhuận tổng thể của chuỗi bởi nó tác động trực tiếp đến chi phí và trải nghiệm khách hàng (KH). Có hai vấn đề cần cân nhắc khi thiết kế mô hình phân phối từ nhà sản xuất (NSX) đến KH cuối cùng, đó là: Sản phẩm được giao đến địa điểm KH yêu cầu hay KH đến mua sản phẩm từ một địa điểm trong mạng lưới; hay sản phẩm có phân phối qua điểm trung gian không? Dựa trên sự kết hợp các phương án cho hai vấn đề trên sẽ tạo ra 6 mô hình phân phối sau đây.

NSX dự trữ và phân phối trực tiếp

Trong mô hình này, thông tin đặt hàng được gửi qua nhà bán lẻ đến NSX, còn sản phẩm được dự trữ và giao trực tiếp từ NSX đến KH cuối cùng mà không qua nhà bán lẻ.

Lợi thế lớn nhất của phân phối không qua nhà bán lẻ là khả năng tập trung nhu cầu từ nhiều đơn hàng, đảm bảo mức độ sẵn có và đa dạng sản phẩm tại NSX cao. Mô hình này, cung cấp dịch vụ địa điểm tốt vì sản phẩm được giao đến vị trí KH yêu cầu; tiết kiệm được chi phí đầu tư cơ sở dự trữ; giảm đáng kể chi phí xử lý hàng hóa tại cửa hàng bán lẻ. Ngoài ra, mô hình này giúp NSX duy trì mức dự trữ thành phẩm thấp bằng cách trì hoãn cá nhân hóa sản phẩm cho đến khi nhận được đơn hàng.

Tuy nhiên, thời gian đáp ứng đơn hàng trong mô hình này thường dài hơn vì khoảng cách vận chuyển từ NSX đến người tiêu dùng khá lớn. Điều này cộng với việc phải sử dụng nhà vận chuyển bưu kiện để giao hàng sẽ làm tăng chi phí vận chuyển. Ngoài ra, một đơn hàng gồm nhiều sản phẩm được mua từ nhiều NSX sẽ phải chia nhỏ để giao từng phần; làm tăng chi phí và giảm trải nghiệm KH. Chi phí xử lý thu hồi khá cao do liên quan đến lô hàng từ nhiều NSX. Đặc biệt, mô hình này cần một hạ tầng thông tin tốt để nhà bán lẻ cung cấp thông tin về sự sẵn có của sản phẩm cho KH mặc dù dự trữ được đặt tại NSX. KH cũng cần được đảm bảo về khả năng hiển thị của quá trình xử lý đơn hàng tại NSX trong khi đơn hàng được đặt với nhà bán lẻ.

NSX dự trữ và hợp nhất giao hàng

Trong mô hình này, NSX cung cấp sản phẩm đến trung tâm hợp nhất được điều hành bởi các nhà bán lẻ hoặc nhà thầu bên thứ ba. Sau đó, nhà bán lẻ sử dụng phương tiện giao hàng của chính họ hoặc của bên thứ ba để vận chuyển đầy xe và giao cho KH cuối cùng.

Khả năng tập trung dự trữ và trì hoãn sản phẩm là lợi thế đáng kể của mô hình này. Tuy nhiên, tổng chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý trong toàn chuỗi sẽ tăng lên, trong khi chi phí vận chuyển sẽ thấp hơn. Mô hình này yêu cầu đầu tư hệ thống thông tin cao hơn, đồng thời đòi hỏi nhà bán lẻ, NSX và nhà cung cấp dịch vụ phải phối hợp chặt chẽ để đảm bảo khả năng hiển thị của đơn hàng. Thời gian đáp ứng đơn hàng có thể dài hơn so với mô hình trên do phải gom hàng, nhưng đổi lại trải nghiệm KH sẽ tốt hơn. Vấn đề xử lý thu hồi trong chuỗi cung ứng này cũng tốn kém và khó thực hiện hơn so với mô hình trên.

Mô hình NSX dự trữ và hợp nhất giao hàng phù hợp với sản phẩm có nhu cầu trung bình thấp, giá trị cao, được nhà bán lẻ phân phối từ một số ít NSX.

Nhà phân phối dự trữ và giao hàng theo kiện

Trong mô hình này, sản phẩm được dự trữ tại nhà phân phối (NPP) hoặc nhà bán lẻ và giao trực tiếp từ các địa điểm này tới KH bằng hình thức vận chuyển theo kiện.

Dự trữ bởi NPP không thích hợp cho sản phẩm lưu chuyển quá chậm. Khối lượng dự trữ tại NPP thường thấp hơn NSX nhưng cao hơn nhiều so với cửa hàng bán lẻ. Chi phí vận chuyển thấp hơn do tận dụng được lợi thế nhờ quy mô trong vận chuyển đầu vào đến nhà kho. Trì hoãn hoàn thiện sản phẩm có thể thực hiện được trong mô hình này nhưng nó yêu cầu nhà kho phải có năng lực lắp ráp sản phẩm. Ngoài ra, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cao hơn nhưng chi phí bảo quản và xử lý ngang bằng với dự trữ bởi NSX.

Ngược lại, hạ tầng thông tin ít phức tạp hơn nhiều so với mô hình dự trữ bởi NSX. Khả năng hiển thị đơn hàng theo thời gian thực giữa KH và nhà kho là cần thiết, nhưng giữa KH với NSX thì không; đồng thời khả năng hiển thị đơn hàng giữa NPP và NSX có thể đạt được với chi phí thấp hơn. Thời gian đáp ứng đơn hàng trong mô hình này tốt hơn so với mô hình NSX dự trữ vì kho của NPP thường gần KH hơn và toàn bộ đơn hàng được tổng hợp tại kho trước khi vận chuyển. Khả năng thu hồi của mô hình này cũng tốt hơn bởi sản phẩm thu hồi có thể được xử lý tại chính nhà kho thay vì gửi đến NSX.

NPP dự trữ và giao hàng chặng cuối

Mô hình này phù hợp với những sản phẩm lưu chuyển tương đối nhanh, được thực hiện bằng cách NPP/bán lẻ dự trữ và giao sản phẩm đến địa điểm KH cuối cùng chỉ định. Giao hàng chặng cuối yêu cầu kho của NPP phải đặt gần KH và tăng số lượng kho nếu cần thiết. Đây là mô hình có mức dự trữ và chi phí vận chuyển cao nhất vì khả năng tổng hợp lô hàng thấp. Tuy nhiên, ở những thị trường có mật độ nhu cầu cao, chi phí vận chuyển có thể thấp hơn hoặc là khoản chi phí KH sẵn sàng trả để nhận sản phẩm tại nhà. Chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý đơn hàng cũng rất cao. Yêu cầu về thông tin đơn hàng tương tự như mô hình giao hàng theo kiện nhưng đòi hỏi thêm sự rõ ràng về lịch trình giao hàng và tính năng theo dõi đơn hàng để kịp thời xử lý các phát sinh khi giao hàng chặng cuối.

Mô hình này có thời gian đáp ứng đơn hàng nhanh nhưng tính đa dạng sản phẩm thường thấp hơn so với sử dụng nhà vận chuyển để giao hàng theo kiện. Trải nghiệm của KH rất tốt, đặc biệt là đối với các sản phẩm kích thước cồng kềnh. So với tất cả các mô hình trên, khả năng thu hồi trong giao hàng chặng cuối là tốt nhất bởi nhà bán lẻ có thể thu hồi sản phẩm từ KH ngay sau khi giao hàng.

NSX/NPP dự trữ và kh đến nhận hàng

Trong mô hình này, dự trữ được duy trì tại kho của NSX/phân phối nhưng KH đặt hàng trực tuyến và sau đó đến địa điểm được chỉ định để nhận hàng. Thông thường mặt hàng lưu chuyển nhanh sẽ được duy trì dự trữ tại địa điểm nhận hàng, trong khi các mặt hàng di chuyển chậm được dự trữ ở trung tâm phân phối/nhà kho hoặc trong một số trường hợp là tại NSX.

Chi phí dự trữ trong mô hình này có thể giữ ở mức thấp đối với NSX/phân phối. Chi phí vận chuyển cũng thấp hơn bất kỳ mô hình phân phối nào nhờ sử dụng nhà vận tải nguyên kiện để tích hợp giao các đơn đặt hàng đến cùng một địa điểm nhận hàng. Tuy nhiên, chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng lại khá cao nếu phải xây dựng các điểm nhận hàng mới. Chính vì thế, mô hình này hiệu quả nhất nếu tận dụng mạng lưới cửa hàng tạp hóa/cửa hàng tiện lợi hiện có làm điểm nhận hàng, nhờ đó giúp chuỗi cung ứng giảm chi phí đầu tư, tăng tính kinh tế của mạng lưới hiện có. Chi phí xử lý đơn hàng tại NSX/nhà kho tương đương với mô hình khác nhưng tại các điểm giao hàng sẽ cao hơn. Đây cũng chính là rào cản lớn nhất đối với sự thành công của mô hình này. Đồng thời, mô hình yêu cầu một hạ tầng thông tin tốt và sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà bán lẻ, địa điểm dự trữ, địa điểm nhận hàng để cung cấp khả năng hiển thị đơn hàng cho đến khi KH nhận được sản phẩm.

Nhà bán lẻ dự trữ, KH đến nhận hàng

Trong mô hình này, cửa hàng bán lẻ dự trữ tại chỗ; KH trực tiếp tới cửa hàng để mua hoặc đặt hàng trực tuyến và nhận hàng tại cửa hàng bán lẻ. Chính điều này làm tăng chi phí vì thiếu sự tích hợp trong giao nhận hàng hóa. Tuy nhiên, với các mặt hàng tiêu dùng nhanh, lợi nhuận biên vẫn có thể tăng ngay cả khi phải dự trữ tại chỗ. Chi phí vận chuyển thấp hơn nhiều so với các mô hình khác do có thể sử dụng phương thức vận tải chi phí thấp để bổ sung sản phẩm cho cửa hàng bán lẻ. Chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cao vì yêu cầu phải có nhiều cửa hàng ngay tại địa phương. Với đơn hàng mà KH đến mua ngay tại cửa hàng thì chỉ cần một hạ tầng thông tin tối thiểu, nhưng với các đơn đặt hàng trực tuyến lại cần một hạ tầng thông tin tốt để cung cấp khả năng hiển thị đơn hàng cho đến khi KH nhận được sản phẩm.

Thời gian đáp ứng đơn hàng rất tốt nhờ dự trữ tại chỗ, nhưng chính điều này lại làm tăng chi phí đảm bảo dự trữ. Tính đa dạng của sản phẩm dự trữ tại chỗ thấp hơn so với các mô hình khác. Khả năng thu hồi khá tốt khi sử dụng mô hình này vì sản phẩm thu hồi có thể được xử lý ngay tại điểm nhận hàng. Mô hình này được xem là phù hợp nhất cho mặt hàng tiêu dùng nhanh hoặc khi KH yêu cầu đáp ứng nhanh.

TS. Trần Thị Thu Hương