Xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ vào Mỹ: Tăng nhưng chưa bền vững

Thời sự - Logistics - Ngày đăng : 08:24, 13/07/2021

(VLR) Trong 5 tháng 2021, Mỹ là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 3,927 tỷ USD, chiếm khoảng 60% trong tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào tất cả các thị trường, tăng 100,3% so với cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, tăng trưởng trong xuất khẩu vẫn tiềm ẩn một số khía cạnh chưa bền vững.

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ tăng trưởng mạnh

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ tăng trưởng mạnh

Lực kéo từ nhu cầu thị trường

Theo Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFOREST), 5 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt kim ngạch 6,628 tỷ USD, tăng 62% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó nhóm hàng sản phẩm gỗ đạt 5,129 tỷ USD, tăng 80,4% so cùng kỳ năm 2020.

Trong đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch đạt 3,927 tỷ USD, chiếm khoảng 60% trong tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam, tăng 100,3% so với cùng kỳ năm 2020. Ngoài thị trường Mỹ tăng cao thì các thị trường trọng điểm xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đều tăng trương mạnh như: Nhật Bản (tăng 12%); Trung Quốc (tăng 22%); các nước EU (tăng 37%); Hàn Quốc (tăng 7%); Úc (tăng 53%); Canada (tăng 71%); Vương quốc Anh (tăng 47%).

Đáng chú ý, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào Mỹ đều tăng. Cụ thể, mặt hàng ghế ngồi năm 2020 xuất khẩu đạt hơn 2 tỷ USD, tăng hơn 2 lần so năm 2020. Trong 5 tháng 2021, mặt hàng này tiếp tục tăng mạnh, đạt trên 1,33 tỷ USD; nội thất gỗ khác năm 2020 xuất hơn 1,65 tỷ USD, tăng 97% so năm 2020. Trong 5 tháng 2021, mặt hàng này tiếp tục tăng, đạt 0,84 tỷ USD; nội thất phòng ngủ năm 2020 đạt hơn 1 tỷ USD, tăng 50% so năm 2020. Trong 5 tháng 2021, mặt hàng này tăng lên hơn 0,5 tỷ USD; bộ phận đồ gỗ năm 2020 xuất khẩu đạt hơn 0,9 tỷ USD, tăng 108% so năm 2020. Trong 5 tháng 2021, mặt hàng này tăng mạnh, đạt gần 0,54 tỷ USD; đặc biệt là mặt hàng nội thất nhà bếp, năm 2020 xuất khẩu đạt hơn 0,51 tỷ USD, tăng hơn 2,8 lần so năm 2020. Trong 5 tháng 2021, mặt hàng này tăng mạnh lên trên 0,26 tỷ USD.

Lý giải nguyên nhân xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường này tăng trưởng mạnh, theo VIFOREST, nhu cầu tiêu dùng tại nội địa của nước Mỹ như xây dựng, nhà ở ngày càng tăng cao, điều này thúc đẩy việc nhập khẩu các sản phẩm gỗ và đồ gỗ để phục vụ cho xu hướng tiêu dùng “làm việc tại nhà, từ xa”, khi nguồn cung trong nước không đáp ứng được và các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội này.

Việt Nam tự chủ được 60-70% nguồn nguyên liệu đầu vào. Gỗ và các sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là các sản phẩm làm từ gỗ rừng trồng trong nước: cao su, keo/tràm, thông, ván công nghiệp,…và nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Mỹ, EU. Trong đó nguồn nguyên liệu trong nước chiếm tới 60-70% tổng giá trị khẩu sang Mỹ. Việt Nam xuất khẩu đồ gỗ theo đơn đặt hàng của nhà nhập khẩu phía Mỹ, dựa trên nhu cầu của người Mỹ, họ chủ yếu đặt mua các mặt hàng làm từ rừng trồng (keo/tràm, cao su, thông) và gỗ có nguồn hợp pháp. Gỗ nhập khẩu từ Mỹ về ngoài dùng sản xuất đồ gỗ xuất khẩu còn phục vụ cho sản xuất đồ gỗ tiêu dùng trong nước ở Việt Nam.

Xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ tăng cao là do mặt hàng ghế ngồi bọc đệm, xuất khẩu mặt hàng này tăng 199% so với cùng kỳ 5 tháng năm 2020, chiếm tới 23% tổng giá trị xuất khẩu sang Mỹ. Đối với mặt hàng tỷ lệ sử dụng nguyên liệu gỗ chỉ chiếm 25% trong cơ cấu giá thành sản phẩm, phần còn lại (75%) là từ các vật liệu như da, đệm, mút, vải…

Ông Nguyễn Quốc Trị - Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) - cho biết, giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ có tăng, nhưng tăng trên tinh thần hoàn toàn minh bạch. Thứ nhất là nguồn nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nguồn nguyên liệu trong nước. Đối với nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đa số đều được nhập khẩu ở những nước có nền quản trị tốt và có hồ sơ đầy đủ. Trong đó, đối với những loại gỗ nhập khẩu theo Công ước CITES đều được kiểm soát và đối khớp với giấy phép nước xuất khẩu là hợp pháp. Bên cạnh đó, tháng 9/2020, Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định 102/2020/NĐ-CP, trong đó, giao cho Bộ NN&PTNT ban hành quyết định về vùng địa lý tích cực và loài rủi ro. Việc này giúp sàng lọc những loài, vùng địa lý và việc này vẫn đang được triển khai.

Đồng quan điểm về vấn đề này, theo VIFORST, việc sử dụng các loài có yếu tố rủi ro trong các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tỷ lệ rất nhỏ khoảng 0,1% trong tổng giá trị xuất khẩu sang thị trường này.

Cẩn trọng rủi ro gian lận thương mại

Liên quan rủi ro về gian lận thương mại, hiện các Bộ, ngành đang tiến hành các cuộc đàm phán, làm việc với phía Mỹ. Tất cả các cuộc điều tra, các yêu cầu của Mỹ, phía Việt Nam đều đã đáp ứng trên tinh thần thẳng thắn, cầu thị. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, kiểm soát nguồn cung gỗ nhập khẩu từ nguồn rủi ro. “Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành và có những phiên trao đổi, đàm phán với phía Mỹ để họ có thể hiểu rõ bản chất vấn đề và sớm khép lại việc điều tra theo Mục 301 Đạo luật Thương mại 1974 đối với việc nhập khẩu và sử dụng gỗ của Việt Nam. Việc này, cần phải làm cho bài bản, thận trọng để bạn hiểu chúng ta đang hướng tới một nền thương mại minh bạch, rõ ràng và là đối tác tin cậy của các thị trường”, ông Lê Quốc Doanh - Thứ trưởng Bộ NN&PTNT - cho hay.

Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, tăng trưởng trong xuất khẩu tiềm ẩn một số khía cạnh chưa bền vững, thậm chí rủi ro, đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu đầu vào nguồn gốc từ nhập khẩu và gian lận thương mại. Do lượng gỗ rủi ro nhập khẩu vào Việt Nam hàng năm vẫn rất lớn; gian lận thương mại trong khâu xuất, nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý, một số mặt hàng bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp cao ở các nước khác, đã và đang có xu hướng chuyển dịch sang Việt Nam như mặt hàng tủ bếp, tủ nhà tắm hay mặt hàng ghế ngồi bọc nệm.

Để ngành gỗ phát triển bền vững, các chuyên gia khuyến nghị, cần có cơ chế kiểm soát chặt các mặt hàng rủi ro. Bên cạnh đó, cần tổ chức các cuộc hội thảo quốc gia, nhằm cung cấp thông tin về các khía cạnh rủi ro trong chuỗi cung cho các bên liên quan.

Báo Công Thương