3 yếu tố tăng giá trị cạnh tranh của thủy sản Việt Nam
Thương hiệu - Giao thương - Ngày đăng : 18:00, 30/08/2016
(Vietnam Logistics Review) Giá trị xuất khẩu thủy sản 7 tháng năm 2016 đạt trên 3,6 tỷ USD, tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm 2015. 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam dự báo lạc quan, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2016 có thể đạt 7 tỷ USD. Tiếp tục phát huy lợi thế nuôi trồng thủy sản, chúng ta cần giải quyết một số vấn đề.
Chuyện giá từ con tôm
Giảm giá thành sản xuất, trong đó là giá thức ăn chăn nuôi và kiểm soát dịch bệnh là điều cần làm trước tiên. Thức ăn chăn nuôi chiếm trên 60% giá thành nuôi tôm, cá. Quản lý được dịch bệnh sẽ giúp tăng tỷ lệ sống, tăng năng suất nuôi.
Ví dụ, con tôm chân trắng nuôi ở Việt Nam có giá cao là do 2 yếu tố trên. Hiện nay, sản lượng tôm nuôi trong nước vẫn chưa đáp ứng công suất chế biến của các nhà máy.
Do vậy, mỗi năm ngành tôm phải nhập khẩu khoảng 500 -600 triệu USD tôm chân trắng nguyên liệu từ nhiều quốc gia để chế biến, tái xuất khẩu, tăng giá trị cho tôm. Đặc biệt, tôm chân trắng nguyên liệu nhập khẩu được doanh nghiệp đánh giá có chất lượng cao và ổn định hơn tôm nuôi nội địa. Vì thế, ngành tôm vẫn còn có thể phát triển hơn nữa khi hạ giá thành.
Tăng cường kiểm soát chất lượng
Người nuôi sẽ chọn các chuẩn VietGap, GlobalGap, ASC, BAP... nhằm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng nội địa cũng như xuất khẩu.
Trong những năm qua, khi có thông báo sự cố phát hiện tồn dư hóa chất, kháng sinh, tạp chất của lô hàng xuất khẩu sang EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... cơ quan Nhà nước liên quan phải vào cuộc chấn chỉnh. Sau đó, cơ quan chức năng phía quốc gia nhập khẩu được mời sang để tiến hành đánh giá và chấp thuận đồng ý thì các lô hàng thủy sản mới tiếp tục được xuất khẩu trở lại.
Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát dịch bệnh, giám sát chất lượng tôm cá, ngăn chặn việc bơm chích tạp chất, sử dụng kháng sinh hóa chất bừa bãi... Bảo đảm chất lượng hàng hóa đóng vai trò quyết định đến uy tín, thương hiệu hàng thủy sản Việt Nam.
Liên kết để không “dẫm đạp nhau”
Cá tra Việt Nam nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long rất phù hợp. Chỉ với diện tích nuôi khoảng 6.000 ha nhưng sản lượng có thể lên đến 1,5 triệu tấn vào thời “hoàng kim” năm 2008. Nhưng do thiếu sự liên kết và việc doanh nghiệp cạnh tranh tự do nên đến nay cá tra xuất khẩu Việt Nam vẫn chưa thoát được khó khăn.
Mối liên kết giữa doanh nghiệp trong hiệp hội ngành hàng nhằm có giá bán thống nhất, hạn chế cạnh tranh lẫn nhau, bảo đảm tất cả thành phần liên quan đến chuỗi sản phẩm tôm, cá tra, rô phi... đều được hưởng lợi trong sản xuất, kinh doanh. Nhờ sự liên kết này, sản xuất nuôi trồng sẽ theo nhu cầu thị trường, không theo phong trào tự phát.
Khi có kế hoạch sản xuất sẽ bảo đảm nguồn cung ổn định, giá cả hợp lý và có lợi nhuận cho các bên.