Logistics toàn cầu và Việt Nam đến năm 2027, xu hướng và rào cản

Thời sự - Logistics - Ngày đăng : 16:17, 26/08/2022

Với mục tiêu phấn đấu của ngành Logistics Việt Nam tới năm 2025, đạt tỷ trọng 8%-10% GDP thì chuyển đổi số (CĐS) là con đường tất yếu để đạt được các chỉ tiêu trên trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0.

Tổng quan

Ngành logistics có thể thiếu nhân lực, vận chuyển đa kênh, đối diện với tin tặc, áp dụng phổ biến công nghệ RFID, đám mây và hướng tới tính bền vững.

Tùy vào mô hình logistics (1PL, 2PL, 3PL hoặc 4PL), những xu hướng khác nhau có thể xảy ra trong tương lai. Các nhà cung cấp dịch vụ 4PL sẽ quản lý toàn bộ hoạt động liên quan đến chuỗi cung ứng như lưu trữ, quy trình, thu mua và phân phối. Nhiều mô hình vận chuyển đường bộ, đường hàng không, đường thủy và đường sắt đều sẽ chuyển đổi khi các công nghệ mới và nhu cầu của người tiêu dùng sẽ "cách mạng hóa" ngành này.

mt-1612-1657526850.png
Thị trường logistics sẽ đón nhận nhiều thay đổi trong tương lai. Ảnh: Shutter Stock

Thay đổi ở từng khu vực

Hiện tại, thị trường logistics phát triển nhanh nhất là châu Á - Thái Bình Dương. Tốc độ này được dự đoán sẽ tăng tốc khi ngày càng nhiều người tiêu dùng trong khu vực đó giàu có hơn. Điều này nghĩa là các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Malaysia và Indonesia sẽ có mức tăng trưởng vượt bậc trong những năm tới.

Ở châu Âu, sự ổn định của chuỗi cung ứng hiện đang bị đe dọa do căng thẳng gia tăng giữa các quốc gia phương Tây và Nga khi cuộc chiến Nga - Ukraine kéo dài. Về lâu dài, kết quả cuộc chiến có thể quyết định việc Nga "xa lánh" châu Âu hơn nữa và tiếp tục hướng về châu Á.

Bắc Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất và tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Trong đó, khu vực Mỹ Latin và các quốc gia châu Phi như Nigeria, Nam Phi đang có mức tăng trưởng nổi bật. Ngành công nghệ đang phát triển ở Argentina và Brazil cũng cho thấy nhiều tiềm năng cho thị trường dịch vụ logistics tại đây.

Vận chuyển đa kênh

Vận chuyển đa kênh khác với vận chuyển truyền thống vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển hàng hóa qua nhiều kênh. Thay vì chỉ chuyển hàng hóa xuyên quốc gia, một kho hàng duy nhất có thể cung cấp dịch vụ trả hàng, đóng gói và vận chuyển toàn cầu.

Sự tăng trưởng và mở rộng của vận chuyển đa kênh có thể do "hiệu ứng Amazon". Theo đó, các nhà bán lẻ truyền thống cung cấp nhiều điểm tiếp xúc đa kênh hơn để tăng lượng khách hàng trung thành. Vận chuyển đa kênh cũng cung cấp trải nghiệm mua sắm liền mạch, kể cả trực tiếp hay trực tuyến cho khách hàng.

Tuân thủ quá trình toàn cầu hóa

Nhiều quy định và luật sẽ được mở rộng để tạo thuận lợi cho thương mại toàn cầu. Do đó, các nhà cung cấp dịch vụ logistics phải nhận thức được những thay đổi ảnh hưởng đến thị trường của họ. Trong đó, cần phải kiểm tra dữ liệu, cung cấp đường truyền dữ liệu của họ và dữ liệu khách hàng trong suốt quá trình logistics. Cuối cùng, các nhà cung cấp phải cập nhật dữ liệu thường xuyên để duy trì tính cạnh tranh.

Thiếu nhân lực

Trong tương lai, số lượng người lao động nghỉ việc được dự báo tăng lên, định hình lại cấu trúc xã hội của nền kinh tế toàn cầu đáng kể. Nhu cầu về mức lương cao hơn, điều kiện làm việc tốt hơn và cơ hội làm việc từ xa là động lực của nhiều người lao động. Do đó, các công ty logistics phải ứng phó và thích ứng khi tình trạng thiếu nhân công xuất hiện.

Tin tặc

Trong năm qua, các cuộc tấn công mạng tăng hơn 30% so với trước đây. Các cuộc tấn công này thường tập trung vào chuỗi cung ứng, đặc biệt đối với các công ty cung cấp dịch vụ logistics. Các công ty logistics 3PL và 4PL đặc biệt gặp rủi ro vì họ phục vụ nhiều dịch vụ tiềm năng như chăm sóc sức khỏe, tiêu dùng... Để tránh những rủi ro này, các công ty logistics cần tiếp tục đầu tư và tái đầu tư vào an ninh mạng.

Tác động từ Covid-19

Dù đại dịch Covid-19 bắt đầu từ năm 2020 nhưng nền kinh tế toàn cầu vẫn đang biến động và được dự tiếp tục kéo dài trong nhiều năm. Doanh nghiệp sẽ cần tìm cách điều chỉnh và loại bỏ chi phí để thích ứng, cân bằng lại chất lượng sức khỏe cộng đồng. Do đó, những loại gián đoạn logistics liên quan đến vấn đề sức khỏe cộng đồng sẽ tạo điều kiện cho các cơ hội mới xuất hiện, ở cả các thị trường mới nổi và nhiều khu vực.

Công nghệ RFID

Công nghệ nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến (RFID) dự kiến tiếp tục phát triển. Dù RFID không mang lại nhiều thay đổi đáng kể trong thời gian qua nhưng những tiến bộ gần đây có khả năng hỗ trợ công ty logistics tối ưu hóa lộ trình, theo dõi hàng hóa theo thời gian thực. Việc triển khai hiệu quả công nghệ RFID sẽ là chìa khóa hỗ trợ xe tải, pallet và hàng tồn kho, cung cấp thông tin chi tiết về toàn bộ chuỗi cung ứng.

Điện toán đám mây

Công nghệ đám mây cũng rất quan trọng vì cho phép các công ty logistics hoạt động từ xa trên mạng lưới logistics rộng lớn. Tiếp tục áp dụng các công nghệ đám mây và tích hợp chúng vào các mô hình kinh doanh hiện có sẽ hỗ trợ sự phát triển hơn nữa của thị trường logistics.

Tính bền vững

Đây là một vấn đề then chốt đối với chuỗi cung ứng và logistics toàn cầu trong tương lai gần. Nhiều nhà sản xuất toàn cầu đang đưa tính bền vững vào kế hoạch kinh doanh của họ. Các quy định về tính bền vững cần chặt chẽ hơn về khí thải từ các phương tiện vận chuyển, giám sát ô nhiễm tàu chở hàng và các vấn đề khác.

gemadept-story1-1619827583960376543183.jpg
Logistics Việt Nam đang gặp các thách thức về công nghệ, chi phí, rào cản nhận thức và nhân lực.

Logistics Việt Nam

Với mục tiêu phấn đấu của ngành Logistics Việt Nam tới năm 2025, đạt tỷ trọng 8%-10% GDP, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên,… thì chuyển đổi số (CĐS) là con đường tất yếu để đạt được các chỉ tiêu trên trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0.

Logistics Việt Nam đang gặp các thách thức về công nghệ, chi phí, rào cản nhận thức và nhân lực. Theo khảo sát mới nhất của Bộ Công Thương về tính sẵn sàng ứng dụng các công nghệ 4.0 của 17 ngành sản xuất kinh doanh thì 16/17 ngành khảo sát ưu tiên đều đang có mức sẵn sàng thấp, 82% doanh nghiệp đang ở vị trí mới nhập cuộc, trong đó 61% còn đứng ngoài cuộc và 21% doanh nghiệp bắt đầu có các hoạt động chuẩn bị ban đầu.

Bảo Hân (tổng hợp)