Nhà thơ Quang Chuyền, uống nước dòng Lô từ lúc lọt lòng

Văn hóa - Ngày đăng : 17:29, 31/10/2022

Trong tâm hồn bất cứ nhà thơ Việt Nam nào cũng vậy, quê là mẹ và ngược lại. Mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi con lớn khôn. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất của tình cảm con người. Quang Chuyền không ngoại lệ.
nha-tho-quang-chuyen-1-1-.jpg
Chân dung nhà thơ Quang Chuyền. Ảnh: Ngô Đức Hành

Tôi có một dòng trong kỷ niệm / Uống nước sông Lô từ lúc lọt lòng / Phù sa bến Tuần pha trong máu / Cho tôi một đời gạn đục khơi trong”. Đây là bốn câu thơ trong bài thơ bốn câu “Dòng sông kỷ niệm” của nhà thơ Quang Chuyền. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đọc bài thơ, biết ông sinh ra và lớn lên tại bên dòng sông Lô.

Sông Lô, dòng sông của lịch sử và văn hóa. Con sông này, được ví như một “con rồng xanh” ưu tư, sau khi cuộn mình giữa núi rừng Việt Bắc, chảy qua nhiều tỉnh, trong đó có Vĩnh Phúc, trước khi hợp lưu ở Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Nhắc đến Lô giang, hẳn ai cũng nhớ “Trường ca sông Lô” của cố nhạc sỹ Văn Cao – được đánh giá là bản trường ca đỉnh cao ghi dấu sự trưởng thành của nền tân nhạc non trẻ của Việt Nam. Quang Chuyền đã từng “Uống nước sông Lô từ lúc lọt lòng”.

Nhà thơ Quang Chuyền tên thật Trần Quang Chuyền, còn có các bút danh khác là Việt Nguyên, Quang Thanh. Ông sinh vào mùa thu Cách mạng tháng Tám, tại xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nay nhà thơ Quang Chuyền cùng gia đình sống tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Quang Chuyền làm thơ từ rất sớm. Ngay từ những ngày học phổ thông anh đã có thơ in báo. Năm 1968 đã có thơ in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Thời đó, được đăng thơ trên một trong những báo chí văn học hàng đầu như tờ tạp chí văn nghệ này của quân đội, thật “không phải dạng vừa đâu”.

Năm 1966, sau khi tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm Việt Bắc, Quang Chuyền được nhận về làm phóng viên cho Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc ngay.  Chiến tranh ngày càng diễn ra khốc liệt. Sau 7 lần viết đơn xin nhập ngũ, kể cả viết đơn bằng máu của mình, năm 1968, Quang Chuyền trở thành lính ở Trung đoàn thông tin 132, có nhiệm vụ xây dựng đường dây thông tin liên lạc từ Bắc vào Nam, xuyên Trường Sơn. Sau đó hơn 2 năm, ông được điều về Phòng Chính trị Binh chủng Thông tin liên lạc làm công tác tuyên truyền và sáng tác.

Từ năm 1972, bàn chân người lính thông tin Trần Quang Chuyền đã xuyên Trường Sơn tham gia cùng đoàn quân giải phóng cho đến ngày đất nước thống nhất. Những ngày “máu và hoa ấy”, “tiếng thơ” Quang Chuyền cất lên tinh thần chiến thắng. “Hóa ra, Trường Sơn là cái nôi dinh dưỡng tạo ra những nhà thơ, nhà văn”, (Nguyễn Thụy Kha). Như vậy, Quang Chuyền là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ.

Cho đến nay, nhà thơ Quang Chuyền đã xuất bản 16 tác phẩm, lâu nhất là “Khoảng cuối mùa thu”, (thơ 1999), mới nhất là “Ký tự mưa chiều”, (thơ 2019). Ông cũng đã có nhiều thành tựu văn chương, có thể kể đến “Giải ba cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội”, “Giải Nhì thơ Binh chủng Thông tin Bộ Quốc phòng”; “Giải ba viết về Giao thông vận tải” do Hội nhà văn Việt Nam và Bộ GTVT đồng tổ chức năm 2015; Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh tặng thưởng cho tập thơ “Tiếng vọng dòng sông”, năm 2013.

Với tôi, thơ ví như người bạn đời ân tình, chung thủy. Thơ giúp tôi giãi bày lòng mình. Tôi đồng hành cùng thơ, ước mong tìm sự đồng cảm”, nhà thơ Quang Chuyền quan niệm.

Thơ Quang Chuyền phong phú về đề tài, trường biên độ cảm xúc. Năm 2014, nhân tổ chức Trại sáng tác Văn học viết về đề tài Giao thông vận tải tại TP. Hồ Chí Minh cho các nhà văn phía Nam tôi mới được gặp Quang Chuyền. Ông hiền lành, ít nói, nhưng không kém phần hóm hỉnh. Dẫu sau giải phóng đất nước, đã gần nửa thế kỷ lập nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, nhưng Quang Chuyền vẫn là con người “quê kiểng”. Chính ông tự họa: “Ta là một gã nhà quê / Bước đời không định lạc về phố đông / Bữa ăn thường thích cua đồng / Dưa chua, tương mặn, cải ngồng bãi soi”, (Tự họa). Chính vì thế, mảng thơ về quê hương Vĩnh Phúc, về người thân khá có “diện mạo”, những bài thơ viết về quê cảm xúc lắng đọng.

Thơ là người. Đọc thơ Quang Chuyền nhận ra ông là con người thủy chung. Quê hương, đúng là mỗi người chỉ một, dẫu bây giờ xã Sơn Động – nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông đã khác xưa rất nhiều nó vẫn luôn là “khoảng trời” thương nhớ.

Quê nhà mỗi lúc khác quê

Chờ con, vuông đất, bờ tre, xóm giềng

Con đi gìn giữ đường biên

Núi sông lòng mẹ nối liền về con

(Nhà mẹ có con đi xa)

song_lo_-nam_tphagiang-2005.jpg
"Một đời sông mẹ trôi ghềnh thác / Chưa một mùa vui gặp khúc trong", thơ Quang Chuyền

Trong tâm hồn bất cứ nhà thơ Việt Nam nào cũng vậy, quê là mẹ và ngược lại. Mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi con lớn khôn. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất của tình cảm con người. Quang Chuyền nhớ về quê, nhớ về mẹ với biết bao day dứt ân nghĩa sinh thành: “Mẹ ơi tết đến vui con cháu / Con ngước trời mây chợt lạnh lòng / Một đời sông mẹ trôi ghềnh thác / Chưa một mùa vui gặp khúc trong”, (Ngày xuân nhớ mẹ). Hẳn nhiên, day dứt nghĩa hiếu là tiếng lòng chung của mọi đứa con. Với người trọng tình nghĩa như Quang Chuyền, quê hương, bố mẹ luôn là cảm xúc ám ảnh: “Cha vác xá cày mẹ gồng gánh lúa / Trọn đời người hắt bóng lệch đường thôn”, (Từ đường làng bước sang đại lộ)

Nhà thơ Huy Thắng, bạn Quang Chuyền kể rằng, mối tình đầu của Quang Chuyền chính là mối tình duy nhất. Thuở đi học Sư phạm, Quang Chuyền quen rồi yêu người bạn học, quê Tuyên Quang. Mối tình mơ mộng ấy kéo dài mấy năm. Oái oăm là gần đến ngày cưới thì chị chẳng may gặp tai biến, ảnh hưởng nặng đến sức khỏe. Nhiều người lo ngại cho Quang Chuyền, bản thân ông cũng suy nghĩ rất nhiều. Nhưng rồi sau nhiều thao thức, trăn trở, ông thuyết phục mẹ: “Con gái có thì, người ta đã bao năm chờ đợi, nay chẳng may gặp tai ương sao đành rời bỏ? Đạo lí, tình nghĩa để đâu, nếu bỏ họ?’. Người mẹ ái ngại, cũng là vì tâm lý nước mắt chảy xuôi truyền thống.

Quyết tâm của ông được đơn vị, gia đình, họ hàng ủng hộ. Đám cưới được tổ chức ngay khi sức khoẻ người yêu dần dần hồi phục. Ông trời có mắt. Sau khi xây dựng gia đình, sức khoẻ của vợ ông khá lên. Bà đã sinh cho ông ba người con, hai trai một gái, các cháu trưởng thành có công ăn việc làm ổn định và hiện đã “con đàn cháu đống”. Chuyện tình của ông bà, cho đến bây giờ vẫn là một giá trị của đạo đức.

Lắng vào ký ức nơi quê

Thẳm nghe tiếng cỏ nhắc về chuyện xưa

Bên sông khuất vắng người chờ

Dòng sông như thiếu một bờ… là tôi

(Dòng sông một bờ)

Bài thơ này nhà thơ Quang Chuyền sáng tác trong một lần trở lại quê nhà, tâm hồn chìm đắm bên dòng Lô giang ký ức. Phàm là con người phải biết thương yêu gia đình, người thân mới biết thương yêu đồng loại. Biết yêu làng mới biết yêu đất nước.

Là người lính đi qua chiến tranh, Quang Chuyền vẫn tiếp tục với đề tài hậu chiến. “Bạn bè khuất bóng chiến tranh / Người vào cõi lão, người thành dáng mây”…” Nhang trầm thơm thoảng tiếng ơi / Gọi nhau để nhớ cuộc đời còn nhau”, (Trong khói nhang bay). Bài thơ này, Quang Chuyền viết đúng vào ngày 30/4/2015, khi cả dân tộc kỷ niệm 40 năm Ngày Thống nhất đất nước. Nhà thơ Quang Chuyền, không ít lần trở lại chiến trường xưa, tìm đồng đội.

Ở đây chôn dấu tháng ngày

Chân dầm trong nước, mây bay trắng đầu

Ở đây vùi lấp niềm đau

Xác người, xác đất trong nhau ngập chìm

(Tìm trong rừng đước)

Hiểu được sự khốc liệt của chiến tranh, mới biết nâng niu những giá trị của hòa bình. Thơ của những nhà thơ từng mặc áo lính như nhà thơ Quang Chuyền luôn có ý nghĩa thông điệp.

Mặc dù tuổi đã cao, nhà thơ Quang Chuyền gần bước vào tuổi bát thập. Thế nhưng, với người làm thơ, cuộc đời luôn bám lấy họ, dằn vặt trái tim họ. Nhà thơ hơn ai hết được sở hữu sư cô đơn, kể cả nỗi đau. Quang Chuyền không ngoại lệ. Chính vì thế, ông vẫn tiếp tục viết mảng thơ thế sự. “Với tay vào nắng xế chiều / Chợt nghe trong nắng rất nhiều lạnh mưa”, (Chạm tay xé lịch).

Trái tim mẫn cảm của nhà thơ Quang Chuyền tiếp tục rung lên nhịp đập cùng nhân sinh. “Một đoạn phố đời luôn xẻ làm hai / Phía náo nức phía tủi buồn đi đến” (Đi qua nơi tôi ở); “Nơi này thiếu vắng bóng quê / Chim ơi sao lạc cơn mê phố phường”, (Tiếng chim trong thành phố); “Sẹo người / Sẹo đất / Sẹo cây / Còn thêm vết sẹo / Tháng ngày / Khó quên”, (Ngẫu khúc).

Thơ Quang Chuyền dung dị, thủ thỉ đầy cảm thông, chia sẻ với thân phận người từ quê ra phố mưu sinh, lầm lụi. Dẫu biết đó là quy luật trong cõi nhân gian này.

Nhà thơ Ngô Đức Hành