TP.Hồ Chí Minh giải bài toán Logistics

Thương hiệu - Giao thương - Ngày đăng : 21:05, 02/01/2023

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc tập trung đầu tư, có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển logistics là vô cùng quan trọng. Có thể nói, logistics là “mạch máu” kết nối chuỗi sản xuất-lưu thông hàng hóa trong nước và giao thương với thị trường thế giới.

Thị trường logistics Việt Nam được xếp hạng thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu nhờ sự chuyển mình mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp cung cấp và sử dụng dịch vụ logistics. Dự báo, tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) giai đoạn 2022-2027 của thị trường logistics Việt Nam sẽ đạt mức 5,5%.

Ngành dịch vụ Logistics đang phát triển nhanh và mạnh tại Việt Nam theo sự tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như dịch vụ bán lẻ, phân phối... Đặc biệt, muốn nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng, cải thiện dịch vụ, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, góp phần cắt giảm chi phí, giá thành thì doanh nghiệp phải sử dụng đa dạng ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh, mà logistics là một mắt xích quan trọng.

Việt Nam đã ký kết và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA)... là các FTA thế hệ mới với nội dung toàn diện và sâu sắc hơn.

Thực thi các FTA chính là quá trình gỡ bỏ dần rào cản thuế quan và phi thuế quan, mang đến kỳ vọng mở rộng thị trường cho cả xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối, bán lẻ... nội địa. Thương mại gia tăng còn tạo ra nhu cầu và động lực cho sự phát triển của dịch vụ logistics; ngược lại logistics chính là nền tảng và “bệ đỡ” cho sự tăng trưởng của kinh tế.

Sự “lên ngôi” của các xu hướng vận chuyển, logistics và chuỗi cung ứng mới trong nền kinh tế số đã giúp Việt Nam trở thành một thị trường mới nổi đầy tiềm năng, nhưng hiện thực hóa những tiềm năng này cần một chính sách tổng thể.

Mới đây, Quyết định 221/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định 200/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 với nhiều giải pháp toàn diện, thể hiện rõ cam kết của Chính phủ nhằm kiến tạo môi trường thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm bớt chi phí logistics.

Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại nên doanh nghiệp cần tổ chức thực hiện một hoặc nhiều khâu. Về phía địa phương, đòi hỏi phải có một chính sách tổng thể từ thu hút đầu tư tới cải thiện cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính… và các cơ quan chức năng đã và đang xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ và hiệu quả.

Hiện nay, việc cả nước nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng bước vào thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập sâu rộng về kinh tế - vừa mang lại cơ hội, vừa đặt ra nhiều thách thức cho hầu hết ngành nghề, lĩnh vực.

Xác định logistics là mắt xích quan trọng kết nối thương mại trong và ngoài nước, TP. Hồ Chí Minh đã và đang tập trung đầy đủ các loại hình logistics như cảng biển, cảng sông, cảng hàng không, ga hàng hóa... nhưng lĩnh vực này vẫn còn một số hạn chế nhất định.

ttxvn_tan_cang_cat_lai_3.jpg
Bốc xếp hàng hóa tại Tân cảng Cát Lái

Nền tảng hệ thống kho bãi của Việt Nam nói chung, TP. Hồ Chí Minh nói riêng đang có quy chuẩn chưa cao. Đồng thời, còn khá nhiều doanh nghiệp logistics chưa cung ứng sâu rộng các dịch vụ trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

Ngoài ra, nhu cầu về vị trí kho vận tiệm cận khu vực nội đô như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội... cũng như nhu cầu xây dựng kho vận quy chuẩn theo hệ thống toàn cầu ngày một tăng cao. Trong khi đó, hệ thống cung cấp các chuỗi dịch vụ logistics thiếu sự tích hợp, chưa áp dụng số hóa trong quản lý, tự động hóa trong vận hành vẫn là khái niệm mới mẻ.

Cùng với đó, nhu cầu về hệ thống kho vận hiện đại kết hợp tự động hóa, đáp ứng sự phát triển của những nhà bán lẻ và ngành thương mại điện tử tại Việt Nam là rất cao. Hơn thế nữa, với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã có nhiều ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động logistics tại Việt Nam.

Liên quan đến phát triển bền vững lĩnh vực logistics, một số chuyên gia cho rằng cần được tiếp cận lĩnh vực logistics ở góc độ tổng thể là các dịch vụ vận tải, kho bãi, đóng gói, kiểm định, giao nhận hàng hóa... dùng để chuyên chở nguyên vật liệu đến từng nhà máy sản xuất, và vận chuyển toàn bộ sản phẩm đến tay người tiêu dùng.

Để phát triển ngành logistics, TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn nhiều thách thức, hạn chế cần được nhận diện, phân tích để có những giải pháp và chính sách phù hợp.

Nói cách khác, dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc, gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hành chính, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao...

Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng doanh thu dịch vụ logistics của doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh tăng trưởng trung bình 14%.

Báo cáo của Sở Công Thương TP. Hồ Chí Minh cho thấy thành phố đã và đang tập trung đầy đủ các loại hình logistics: cảng biển, cảng sông, cảng hàng không, ga hàng hóa.

Thống kê trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, có 5 cảng cạn (ICD) đang hoạt động tại khu vực phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, bao gồm: ICD Tracomexco-Phước Long 3, ICD Transimex, ICD Sotrans, ICD Tây Nam-Tanamexco, ICD Phúc Long, với tổng diện tích 50,2ha (nếu tính cả Phước Long 1 và Kho bãi thành phố thì tổng diện tích là 63ha), với 1.112m cầu cảng, có khả năng tiếp nhận tàu 5.000 tấn.

Đến nay, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh cũng đã có 1.505 kho hàng, trong đó 520 kho của doanh nghiệp sản xuất. Những kho hàng này, chủ yếu phát triển quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy vào nhu cầu của chủ hàng. Nhìn tổng thể, hệ thống kho hàng và trung tâm phân phối tại khu vực TP. Hồ Chí Minh đang có xu hướng thu hẹp, chuyển dần về phía các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai.

Tuy nhiên, hệ thống kho lạnh trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh chưa phát triển, ít người đầu tư, kinh doanh... trong khi nhu cầu kho lạnh khá cao, dẫn đến khó thuê được kho lạnh và cước lưu kho cao. Đồng thời, hệ thống giao thông nội thành và liên tỉnh chưa đầy đủ, cũng như một số dự án vẫn chờ thời gian hoàn thành dự án trong tương lai mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư, kinh doanh kho lạnh trên địa bàn thành phố.

Hiện nay, hoạt động vận tải chiếm khoảng 55-65% chi phí logistics được thống kê thuộc nhóm cao nhất trong các dịch vụ, sản phẩm thuộc chuỗi cung ứng. Dữ liệu hành trình của các phương tiện vận tải đã được áp dụng, nhưng việc khai thác, phân tích dữ liệu này thành cơ sở đề xuất hay đưa ra những quyết định liên quan đến quy hoạch giao thông, bố trí bãi đậu xe nội thành hay khu vực trung chuyển hàng hóa vẫn chưa được khai thác.

Hoạt động vận tải vốn là mắt xích quan trọng trong lưu thông hàng hóa, tác động trực tiếp đến hiệu quả của logistics đối với hoạt động xuất nhập khẩu lẫn thương mại điện tử. Tuy nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh chưa có những trung tâm logistics đáp ứng tiêu chí trong Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Theo Đề án phát triển logistics TP. Hồ Chí Minh đến 2025 và tầm nhìn 2030 của Sở Công Thương Thành phố, căn cứ vào nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa trong khu vực và xuất nhập khẩu, đồng thời trên cơ sở rà soát nguồn quỹ đất hiện có để phát triển 7 trung tâm logistics đạt chuẩn.

Về giải pháp hợp tác, thực hiện liên kết vùng như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng bằng sông Cửu Long... nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, xây dựng những tuyến đường vành đai và nhất là hệ thống đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh kết nối địa phương.

Cụ thể, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phân chia vai trò trong chuỗi dịch vụ ngành logistics, trong đó TP. Hồ Chí Minh hướng tới cung cấp dịch vụ giá trị cao trong chuỗi dịch vụ logistics xuất khẩu và phân phối nội địa. Các tỉnh, thành lân cận hướng tới trở thành những trung tâm logistics vệ tinh - nơi tập trung dịch vụ logistics cơ bản phục vụ cho hàng hóa được sản xuất tại địa phương trước khi xuất khẩu qua cụm cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở này, các địa phương "bắt tay" tạo sự thuận lợi trong vận tải, thương mại hàng hóa nội địa và quốc tế bằng việc rút ngắn thời gian vận chuyển, tăng chất lượng dịch vụ logistics.

Mặc dù có sự phát triển trong nhiều năm qua nhưng lĩnh vực hạ tầng cứng và hạ tầng kỹ thuật vẫn còn thiếu các trung tâm logistics để làm nơi lưu trữ, chuyển tải hàng hóa, hệ thống đường giao thông còn chưa đồng bộ. Điều này không chỉ dẫn đến dẫn ùn tắc giao thông mà còn là nguyên nhân tăng thời gian vận chuyển và chi phí logistics.

TP. Hồ Chí Minh đang gặp vấn đề về tình trạng thiếu container rỗng và giá cước vận chuyển tăng cao gây khó khăn trong xuất khẩu. Kết quả này tương đồng với khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) là có gần 40% công ty gặp khó khăn trong việc tìm kiếm container rỗng.

Do đó, trong dài hạn, các địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần có chính sách thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng từ Đồng bằng sông Cửu Long-TP. Hồ Chí Minh và xuất khẩu như đầu tư cảng nước sâu, đường cao tốc...

Trong ngắn hạn, chính quyền địa phương phối hợp chặt chẽ cơ chế chính sách quản lý Nhà nước như cần có những chính sách nhằm bình ổn chi phí liên quan đến hoạt động logistics, rút ngắn thời gian vận chuyển.

Liên kết TP.HCM với Vùng TP.Hồ Chí Minh, Vùng kinh tế Tây Nam Bộ, Vùng kinh tế Đông Nam Bộ cũng là bài toán cần phải có câu trả lời 

Liên kết vùng thúc đẩy phát triển các chính sách liên kết, kéo theo đó là các chính sách cho phát triển logistics đồng bộ và hợp lý; tăng cường cầu logistics nhờ liên tục mở rộng đối tác tiềm năng, phân bổ cơ sở hạ tầng logistics giữa các địa phương thành một hệ thống đồng bộ... Hay nói cách khác, liên kết vùng ngoài giải quyết trở lực lớn nhất của địa phương và vùng về hạ tầng giao thông còn hỗ trợ chính sách, nguồn lực, cầu logistics và nhân lực.

Chính vì vậy, để phát triển logistics, một trong những vấn đề cấp thiết, kết nối giữa các địa phương, hướng đến sự chia sẻ nguồn lực hạ tầng toàn vùng. Đồng thời, để hiện thực hóa những mục tiêu và giải pháp đề ra cho giai đoạn phát triển đến 2025 và tầm nhìn 2030, cần có các chính sách như một giải pháp điều phối cải thiện tính hệ thống và quy trình chưa hoàn chỉnh hiện nay.

Theo các chuyên gia Logistics, trong đó TP. Hồ Chí Minh hướng tới cung cấp dịch vụ giá trị cao trong chuỗi dịch vụ logistics xuất khẩu và phân phối nội địa. Còn các tỉnh, thành lân cận hướng tới trở thành trung tâm logistics vệ tinh - nơi tập trung dịch vụ logistics cơ bản phục vụ cho hàng hóa được sản xuất tại địa phương trước khi xuất khẩu qua cụm cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh.

Võ Thị Phương Thủy (tổng hợp)