Kết nối giao thông là tiền đề, động lực
Hiện nay, về giao thông đường bộ, Tây Nguyên có hệ thống đường giao thông liên vùng tương đối phát triển với 19 km đường cao tốc và 3.114 km đường quốc lộ nối liền với các tỉnh Duyên hải miền Trung, các cảng biển, Đông Nam Bộ thông các trục dọc: QL14, QL14C, đường Trường Sơn Đông, các trục ngang: QL19, QL20, QL24, QL25, QL26, QL27, QL28, QL28B, QL29 và thông thương với Đông Bắc Campuchia và Nam Lào qua các tuyến QL18B, 78.
Giai đoạn vừa qua, được Đảng, Nhà nước và Chính phủ quan tâm đầu tư (khoảng 95.655 tỷ đồng), hệ thống giao thông vùng Tây Nguyên đã được cải thiện đáng kể, cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại. Đơn cử như việc nâng cấp, khai thác tốt các tuyến đường trục và đường ngang xuống các tỉnh ven biển miền Trung, các tuyến đường sang Lào và Campuchia.
Về quy hoạch, hệ thống kết nối nội vùng và kết nối liên vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ đã được hoạch định. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Các trục ngang kết nối có mật độ thấp, quy mô nhỏ, đèo dốc quanh co.
Mặc dù đã được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp nhưng do tốc độ khai thác thấp (từ 40-50 km/h) mới chỉ đáp ứng nhu cầu vận tải thông thường, chưa có tuyến cao tốc kết nối nhanh với các vùng lân cận và cảng biển, sân bay. Duy nhất chỉ có tuyến cao tốc nội vùng Liên Khương - Prenn khai thác từ năm 2008 với chiều dài 19 km. Do vậy, vùng chưa có hệ thống giao thông kết nối đóng vai trò tiền đề, động lực để khai thác đặc điểm, tiềm năng, lợi thế vốn có và nâng cao đời sống người dân vốn còn gặp nhiều khó khăn.
Có 4 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, khó khăn, gồm: (i) công tác lập quy hoạch thiếu tính liên kết, chưa đồng bộ giữa các chuyên ngành; (ii) kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giữa các địa phương trong vùng còn thiếu đồng bộ, chưa chú trọng đến kết nối vùng, liên vùng; (iii) thiếu các cơ chế, chính sách đột phá trong huy động nguồn lực và nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế; (iv) việc kêu gọi đầu tư theo phương thức PPP các dự án GTVT chưa thực sự hiệu quả.
Theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các tuyến đường bộ cao tốc kết nối vùng Tây Nguyên dự kiến khoảng 156.000 tỷ đồng và kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng chia là 2 giai đoạn.
Giai đoạn 2021 - 2025, tổng vốn bố trí để triển khai 4 dự án đường bộ cao tốc có tính chất liên vùng (cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, cao tốc Dầu Giây - Liên Khương,..) với kinh phí khoảng 28.038 tỷ đồng (Bộ GTVT đã bố trí khoảng 12.303 tỷ đồng nguồn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương dự kiến bố trí khoảng 6.515 tỷ đồng) và kêu gọi vốn ngoài ngân sách nhà nước khoảng 9.220 tỷ đồng.
Giai đoạn 2026 - 2030, nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí để triển khai các dự án cao tốc đã hoạch định trong quy hoạch có tính liên kết vùng (cao tốc Bắc Nam phía Tây các đoạn Gia Nghĩa đến Chơn Thành, Chơn Thành đến Đức Hòa...) với tổng nhu cầu vốn đầu tư tối thiểu khoảng 89.165 tỷ đồng.
Hạ tầng cao cao tốc phải "đi trước một bước"
Để tăng trưởng kinh tế xã hội, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên là giao thông phải hiện đại, kết nối toàn vùng tới các cảng biển, sân bay. Trước năm 2030, Tây Nguyên cần hoàn thành các cao tốc quan trọng như Quy Nhơn - Pleiku, Khánh Hoà - Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa - Chơn Thành, Tân Phú - Bảo Lộc, Bảo Lộc - Liên Khương.
Để phát triển nhanh và bền vững, Thủ tướng đề nghị Tây Nguyên cơ cấu lại kinh tế, lấy phát triển nông lâm nghiệp là trọng tâm, trụ đỡ và công nghiệp chế biến là động lực, du lịch là đột phá. Vùng cần ứng dụng nhiều khoa học công nghệ trong nông nghiệp, năng lượng sạch, du lịch, bảo vệ môi trường...
Thủ tướng cũng nêu ra những vấn đề mà Tây Nguyên đang vướng như: Kinh tế phát triển chưa ổn định, bền vững; quy mô GRDP, năng suất lao động thấp nhất trong 6 vùng cả nước; chậm ứng dụng khoa học công nghệ...
Bộ GTVT từng đề xuất một số giải pháp trọng tâm cần thực hiện trong thời gian tới. Một là, cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng trong quản lý, đầu tư phát triển hệ thống giao thông đường bộ để tạo không gian kinh tế thống nhất, khắc phục các điểm nghẽn, tăng năng lực cạnh tranh.
Hai là, huy động, phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các công trình động lực, có tính lan tỏa, kết nối giữa các phương thức, đặc biệt là các tuyến cao tốc trong quy hoạch; khai thác có hiệu quả nguồn lực từ tài sản kết cấu hạ tầng được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước thông qua hình thức nhượng quyền khai thác.
Ba là, các địa phương khẩn trương hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng; khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án đường bộ cao tốc được đầu tư; kiện toàn bộ máy đủ năng lực để làm cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các dự án đường bộ cao tốc qua địa bàn tỉnh theo chủ trương phân cấp, phân quyền.
Bốn là, khi xây dựng các công trình đường bộ cao tốc cần đi xa các tuyến đường cũ để tạo thêm không gian mới làm động lực để phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp mới trong vùng, khai thác quỹ đất hình thành từ hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông để tái đầu tư phát triển.
Năm là, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các địa phương đầu tư kết cấu hạ tầng do trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh để phát huy tính chủ động của các địa phương, huy động tối đa mọi nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Sáu là, các địa phương hỗ trợ đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án đường bộ cao tốc đang triển khai trên địa bàn; chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chặt chẽ hành lang an toàn giao thông; tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vật liệu, công bố giá kịp thời, sát thực tế để phục vụ triển khai các dự án đầu tư xây dựng.
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng, tổng diện tích 54.500 km2, khoảng 6 triệu dân. Vùng có nhiều tài nguyên khoáng sản quý hiếm; một triệu ha đất đỏ bazan màu mỡ; hơn ba triệu ha rừng (chiếm 36% diện tích rừng cả nước); 10 tỷ tấn bô xít (hơn 90% trữ lượng cả nước)... Đây được xem là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng của đất nước.