Tình hình chung Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố là TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh. Khu vực này kết hợp với 2 tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long là Long An và Tiền Giang để tạo nên vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế sôi động nhất cả nước trong thời gian qua.
Về phát triển công nghiệp, vùng có 01 khu công nghệ cao, 02 khu chế xuất, trên 40 KCN với tổng diện tích khoảng 24 nghìn ha. Các KCN trải đều các tỉnh, thành phố, trong đó tập trung chủ yếu tại Bình Dương và Đồng Nai.
Đông Nam Bộ cũng là khu vực tập trung hạ tầng logistics quan trọng của cả nước, đảm nhận 45% tổng khối lượng hàng hóa và hơn 60% khối lượng hàng container của cả nước thông qua hệ thống cảng Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh), Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Khu vực nhóm cảng biển Đông Nam Bộ hiện nay có 06 luồng hàng hải công cộng đang hoạt động khai thác: Luồng hàng hải Sài Gòn - Vũng Tàu; Luồng hàng hải Vũng Tàu - Thị Vải; Luồng hàng hải Sông Dinh; Luồng hàng hải Soài Rạp; Luồng hàng hải Đồng Tranh - Gò Gia; Luồng hàng hải Đồng Nai.
Ngoài hệ thống cảng biển, vùng còn có sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và sân bay Long Thành đang được xây dựng.
Vùng Đông Nam Bộ đi đầu cả nước về ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Các địa phương đều đang tích cực triển khai cổng dịch vụ công trực tuyến và hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành với phạm vi liên thông từ cấp tỉnh đến cấp xã và liên thông cung cấp dịch vụ công lên Cổng dịch vụ công quốc gia.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh của sản xuất công nghiệp và xuất, nhập khẩu, nguồn hàng tập trung về khu vực này tăng mạnh trong những năm gần đây, trong khi mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng chưa đáp ứng được yêu cầu của một trung tâm về sản xuất công nghiệp và xuất, nhập khẩu quy mô lớn. Điều này đã dẫn đến tình trạng hệ thống giao thông quá tải, tắc nghẽn, xuống cấp, nhất là các tuyến đường quốc lộ và đường nội đô, kết nối cảng biển; thiếu đồng bộ giữa phát triển các phương thức vận tải, giữa hệ thống giao thông với các bến cảng, trung tâm logistics, giữa kết cấu hạ tầng của các địa phương trong Vùng dẫn đến làm chậm khả năng luân chuyển hàng hóa. Một số công trình trọng điểm như sân bay Long Thành (giai đoạn 1), di dời cảng trong khu vực TP. Hồ Chí Minh, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, công trình hạ tầng kỹ thuật khắc phục tình trạng ngập úng... còn chậm tiến độ. Do đó, đến nay vùng vẫn thiếu tuyến đường sắt quốc gia nối từ các trung tâm công nghiệp ở Bình Dương, Đồng Nai xuống cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải.
Trong bối cảnh đó việc tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa vùng với các vùng kinh tế khác, đặc biệt là ĐBSCL là điều kiện quan trọng để phát triển bền vững. Đặc biệt, đường vành đai 3 đi qua bốn tỉnh thành là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Long An, có tổng chiều dài 76,34 km đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư vào giữa tháng 6/2022 kỳ vọng sẽ giải quyết được vấn đề ách tắc, giảm thời gian và chi phí vận chuyển hàng hóa trong khu vực.
Logistics TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu
Đặc điểm, thực trạng và triển vọng
Đầu năm 2022, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã phê duyệt “Đề án phát triển ngành Logistics trên địa bàn thành phố đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, thành phố sẽ xây dựng 7 trung tâm logistics, với tổng diện tích hơn 620 ha. Tổng nhu cầu vốn phát triển ngành logistics giai đoạn này gần 96.000 tỷ đồng. Từ đó, đưa logistics thành ngành dịch vụ mũi nhọn, giúp thành phố nâng cao vai trò đầu mối giao lưu hàng hóa trong nước và kết nối với thị trường quốc tế.
UBND thành phố Hồ Chí Minh xác định hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối vùng, đặc biệt tập trung hoàn thành đường Vành đai 2 khép kín, khởi công hệ thống đường Vành đai 3 và 4, tuyến Metro số 1, số 2, cầu Cát Lái, cầu Thủ Thiêm để kết nối giao thông thông suốt trong nội đô, cũng như giữa thành phố và các địa phương lân cận.
Triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Mộc Bài (Tây Ninh), đẩy mạnh tiến độ khởi công tuyến cao tốc này để phát triển kinh tế biên mậu, phát triển du lịch nội địa. Mở rộng các tuyến Quốc lộ 13, Quốc lộ 22, Quốc lộ 50, các tuyến đường kết nối các tỉnh.
TP. Hồ Chí Minh là địa bàn tập trung nhiều nhất các doanh nghiệp dịch vụ logistics của cả nước, trong đó có các doanh nghiệp dẫn đầu ngành logistics Việt Nam về quy mô hoạt động. Trong những năm qua, một số doanh nghiệp đã tiên phong trong ứng dụng công nghệ, hợp tác với trong nước và quốc tế để đa dạng hóa dịch vụ, nhờ đó giúp dịch vụ logistics trên địa bàn phát triển hơn về loại hình, quy mô và chất lượng.
Năm 2022, dịch bệnh đang được kiểm soát nhưng hoạt động sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, đặc biệt những tháng cuối năm tình hình đơn hàng kém khả quan. Giá cước vận tải biển biến động mạnh, thiếu container, thiết bị bốc dỡ và tàu chuyên chở, khiến các chuỗi cung ứng đối mặt áp lực lớn. Chi phí logistics tăng cao trong khi một số thị trường đối tác thay đổi quy định, chính sách khiến các doanh nghiệp logistics cũng liên tục phải điều chỉnh dịch vụ.
Bối cảnh đó đang đặt ra yêu cầu cao về tính linh hoạt và chuyên nghiệp hơn trong dịch vụ logistics tại đầu tàu kinh tế của cả nước nhằm giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả và thực sự hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp chủ hàng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Để tháo gỡ các nút thắt logistics cho hoạt động xuất khẩu, TP. Hồ Chí Minh đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi thương mại cho doanh nghiệp như: hàng hóa xuất nhập khẩu thông quan luồng xanh chiếm đến 80%, luồng đỏ 2%. Tuy nhiên, các thủ tục hành chính vẫn còn khó khăn, hạn chế. Trong đó, thủ tục kiểm tra chuyên ngành chưa tiện lợi cho doanh nghiệp.
Theo UBND Thành phố Hồ Chí Minh, để kết nối hiệu quả chuỗi cung ứng hàng hóa giữa TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh trong vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam hiệu quả, nghiên cứu cơ chế phối hợp chung trên ba lĩnh vực quy hoạch và phát triển vùng đô thị; đào tạo nguồn nhân lực, thị trường lao động và bảo vệ môi trường chung.
Đối với Bà Rịa - Vũng Tàu, trên địa bàn tỉnh có 69 bến cảng được quy hoạch, đến tháng 5/2022 có 50 dự án đang hoạt động với tổng công suất thiết kế là 152 triệu tấn/năm. Trong đó có 8 cảng container với công suất 8,3 triệu TEU/năm.
Tổng sản lượng hàng hóa bằng tàu biển thông qua hệ thống cảng biển của tỉnh giai đoạn 2017 -2021 là 356,4 triệu tấn (bình quân 71,28 triệu tấn/năm, tăng 5,5%/năm trong giai đoạn này).
Cụm cảng Cái Mép - Thị Vải là cụm cảng chính của cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, hiện đã có 24 dự án đi vào hoạt động với tổng công suất thiết kế là 129 triệu tấn/năm, có tiềm năng là cửa ngõ quan trọng không chỉ của Việt Nam mà còn của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, hạn chế về kết nối đường bộ (thiếu và ách tắc) khiến tiềm năng cảng lớn nhưng hiệu quả khai thác còn hạn chế.
Dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh khá đa dạng, từ vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ khác, với doanh thu dịch vụ giai đoạn 2017 - 2020 đạt khoảng 18.000 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, trình độ phát triển của các dịch vụ logistics vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một trung tâm quan trọng của khu vực Đông Nam Bộ về vận tải biển và đa phương thức. Các doanh nghiệp logistics, đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh cảng thủy nội địa kết hợp kho bãi logistics, cảng cạn ICD đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư nhưng chậm triển khai đưa vào hoạt động.
Các dịch vụ hỗ trợ kiểm tra chuyên ngành chưa được đầu tư tại khu vực Cái Mép và vẫn phải thực hiện ở TP. Hồ Chí Minh do đó làm mất nhiều thời gian, chi phí đi lại của chủ hàng, đại lý giao nhận, làm giảm hiệu quả của hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải.
Hệ thống cảng biển Cái Mép - Thị Vải có bước phát triển nhanh nhưng hệ thống dịch vụ kho bãi, trung tâm logistics sau cảng chưa theo kịp xu thế; thiếu hụt các dịch vụ logistics như mạng lưới dịch vu kho tổng hợp hàng hóa, ICD, kho lạnh, dịch vụ về container như vệ sinh, sửa chữa, cung cấp pallet, đóng gói hàng hóa theo yêu cầu.
Với vai trò là một trong hai đầu mối quan trọng cho xuất, nhập khẩu hàng hóa bằng đường biển tại khu vực phía Nam, Cụm cảng Cái Mép - Thị Vải (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), đã ứng dụng công nghệ và triển khai hệ thống cảng thông minh để tăng tính hiệu quả trong xử lý nhanh chóng hàng hóa xuất, nhập khẩu từ nhiều địa phương, đặc biệt khi khối lượng hàng hóa tăng mạnh trước và sau đại dịch COVID-19.
Công nghệ góp phần giảm thiểu thời gian làm hàng từ 2 - 3 giờ/container xuống còn 50 phút/ container vào hạ bãi và xuất hàng ra cổng, giúp giảm 55% thời gian tàu nằm bến cho các hãng tàu, giảm 3/4 thời gian giao nhận hàng hóa cho khách hàng, giảm 60% các vụ việc mất an toàn lao động, an toàn giao thông, qua đó tăng hiệu quả logistics trong khu vực Đông Nam Bộ và ĐBSCL.25
Có thể thấy nguồn hàng cho dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh rất dồi dào, không chỉ từ khu vực Đông Nam Bộ mà còn từ khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, hạ tầng giao thông kết nối cụm cảng Cái Mép - Thị Vải với vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng ĐBSCL chưa theo kịp với xu thế phát triển của cảng biển và kinh tế - xã hội của khu vực. Việc điều phối phát triển vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam chưa lý để khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Ví dụ, đa phần các container xuất nhập khẩu qua cảng Bà Rịa - Vũng Tàu đều sử dụng sà lan đường thủy nội địa để về TP. Hồ Chí Minh và các khu vực lân cận để thông quan, chỉ một số ít sử dụng đường bộ và làm thủ tục hải quan tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Điều này vừa gây áp lực lớn lên hệ thống giao thông đường bộ tại TP. Hồ Chí Minh, vừa hạn chế nguồn thu ngân sách của tỉnh.
Một số khuyến nghị
Theo ý kiến của các chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp, TP. Hồ Chí Minh cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời cần đẩy mạnh phát triển logistics để kéo giảm chi phí cho doanh nghiệp, vì hiện nay, việc kết nối vận chuyển đường bộ, thủy chưa đồng bộ, làm chi phí tăng cao.
Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu, cần tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do đang có lộ trình cắt giảm thuế; lưu ý về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; tối ưu hóa các giải pháp logistics trong nội bộ doanh nghiệp và trong quá trình lưu thông, qua đó giảm thiểu rủi ro và chi phí.
Đối với Bà Rịa Vũng Tàu, thúc đẩy Dự án Trung tâm Logistics Cái Mép Hạ; thí điểm cơ chế cảng mở tại cụm cảng container khu vực Cái Mép; thành lập Chi cục Kiểm định Hải quan tại khu vực cảng Cái Mép - Thị Vải; đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; chuẩn bị đầu tư dự án đường sắt Biên Hòa -Vũng Tàu...
Đẩy mạnh hỗ trợ nâng cao hiệu quả khai thác tiếp thị và mở rộng nguồn hàng cho cụm cảng Cái Mép - Thị Vải. Nghiên cứu xây dựng trung tâm phân phối hàng hóa kết nối Cảng hàng không quốc tế Long Thành và cảng biển Cái Mép - Thị Vải nhằm kết hợp vận tải đa phương thức.
Nghiên cứu khả năng hình thành khu mậu dịch tự do nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động logistics trên địa bàn, cụ thể là tại Cái Mép để các tập đoàn chuyển các chuỗi cung ứng toàn cầu về khu vực này.
Về phát triển dịch vụ logistics, cần đẩy mạnh xây dựng các dịch vụ logistics 3PL, 4PL thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ, kết nối với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics; phát triển các loại hình vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới, nhất là với hàng quá cảnh.