(Vietnam Logistics Review) TP.HCM có hệ thống logistics phát triển và có tầm quan trọng nhất trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước. trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, tp.hcm cần nhanh chóng xây dựng chương trình phát triển logistics trở thành ngành kinh tế chủ lực.
Thực trạng cơ sở hạ tầng ngành logistics TP. HCM
Vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ trên địa bàn TP.HCM phát triển với tốc độ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng khối lượng vận tải hàng hóa. Trong khi đó vận tải đường biển, đường sông khá ổn định. Riêng vận tải đường hàng không chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Hoạt động vận chuyển hàng hóa giữa TP.HCM với các quốc gia trên thế giới (chủ yếu bằng đường biển) có sự tăng trưởng chậm hơn so với hoạt động vận chuyển hàng hóa giữa TP.HCM với các địa phương khác (đường bộ, đường sông).
Theo Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA), khu vực cảng TP.HCM đứng đầu cả nước về sản lượng container thông qua, chiếm 58,81% thị phần. Trong đó, riêng Tân Cảng Cát Lái (quận 2) chiếm đến 48% thị phần cả nước và chiếm 80,89% thị phần khu vực cảng TP.HCM. Có được vị thế đó là nhờ Cát Lái nằm gần trung tâm TP.HCM, gần các khu công nghiệp, kho hàng của các DN Đồng Nai, Bình Dương; có đầy đủ các dịch vụ hậu cần gồm: kho bãi, giao nhận, vận chuyển và đặc biệt tại đây quy tụ rất nhiều hãng tàu quốc tế.
Theo Cục Hàng không Việt Nam, sân bay Tân Sơn Nhất được thiết kế với năng lực tiếp đón 23 triệu hành khách vào năm 2020. Tuy nhiên, năm 2014, sân bay Tân Sơn Nhất đã đạt 22.140.348 lượt hành khách và 408.006 tấn hàng hóa. Đến năm 2015, Tân Sơn Nhất đã đón trên 25 triệu hành khách, vượt tải thiết kế. Mặc dù sẽ được mở rộng diện tích đất về phía Bắc hơn 8 ha nhưng sân bay Tân Sơn Nhất chỉ có thể nâng công suất thiết kế đến 25 triệu hành khách/năm.
Hiện tại, TP.HCM chưa có đường sắt nối vào các cảng biển, hiện chỉ có một tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua các tỉnh và kết thúc tại ga Sài Gòn. Theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt, TP.HCM sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị (metro). Đặc biệt, với 3 tuyến đường sắt đô thị đang được triển khai, cơ bản mạng lưới đường sắt đô thị đã kết nối đến hầu hết các khu vực có tốc độ đô thị hóa cao của TP.HCM.
Thực trạng các trung tâm logistics
Sau khi thực hiện kế hoạch giải tỏa, di dời các cảng Sài Gòn, Tân Cảng và ICD Trường Thọ - Thủ Đức, Thành phố còn 2 cảng biển lớn là Hiệp Phước và Cát Lái. Cảng Tân Cảng - Cát Lái hiện là cảng container quốc tế lớn và hiện đại nhất VN, nằm gần các khu công nghiệp, khu chế xuất phía Bắc TP.HCM và khu công nghiệp các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai. Cảng có diện tích 130 ha, 1.424m cầu tàu (8 bến), được trang bị hệ thống quản lý, khai thác container hiện đại cho phép tối ưu hóa năng lực khai thác cảng, giảm thời gian giao nhận hàng,... Để phát triển thành Trung tâm logistics loại 1 của khu vực phía Nam, Công ty TNHH MTV Phát triển khu công nghiệp Sài Gòn đã có dự án xây dựng trung tâm logistics khoảng 66 ha tại cảng Cát Lái và nối kết theo đó là khu vực khoảng 40ha thuộc khu công nghiệp Cát Lái (giai đoạn 2). Đây là nội dung thuộc Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Thành phố giai đoạn 2008 - 2010 và đã được UBND TP.HCM chấp thuận chủ trương quy hoạch khu vực logistics tại Cát Lái (theo văn bản số 4278/VP-TM ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Ủy ban nhân dân Thành phố).
Cảng Tân Cảng - Hiệp Phước hiện có diện tích 18,7ha, cầu tàu 420m, bãi chứa hàng 17ha, có khả năng thông qua 9 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Với vị trí chiến lược nằm ở giao điểm giữa vùng phía Nam của TP.HCM và Biển Đông, kết nối với các tuyến đường vành đai và hàng loạt khu công nghiệp, cảng Tân Cảng - Hiệp Phước là nơi tập trung xuất nhập khẩu hàng hóa của các khu công nghiệp phía Nam Thành phố và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn đang triển khai đầu tư thêm 5.000m cầu tàu, 300ha bãi chứa hàng, xây dựng cảng container và cảng tổng hợp tại khu công nghiệp Hiệp Phước.
Ngoài hai khu vực trên, khu Công nghệ cao (quận 9) cũng vừa hoàn thành xây dựng kho ngoại quan và trung tâm logistics với tổng diện tích hơn 10ha nhằm đáp ứng nhu cầu phân phối nội địa và xuất khẩu cho các DN trong khu Công nghệ cao và DN các tỉnh lân cận. Trung tâm logistics tại khu Công nghệ cao bao gồm hệ thống kho ngoại quan, kho bảo thuế, kho CFS (container - freight station), kho thường, kho lạnh và bãi chứa container với chức năng hoạt động như điểm thông quan nội địa ICD. Với vị trí nằm gần đường vành đai 2, khu vực giáp ranh với các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, trung tâm sẽ tập trung phát triển dịch vụ logistics tích hợp trọn gói và đồng bộ các phương thức vận chuyển đường bộ, đường thủy và đường hàng không.
Thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ logistics
Cả nước hiện nay có khoảng 3000 công ty tham gia cung cấp các loại hình dịch vụ logistics, trong số đó 70% có trụ sở ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và có khoảng 30 công ty logistics đa quốc gia. DN nước ngoài chiếm phần lớn thị phần vận tải viễn dương tại VN, gồm vận chuyển hàng hóa xuất khẩu từ cảng của VN ra nước ngoài. Nhìn chung, DN logistics trong nước có thế mạnh về hoạt động nội địa, cung cấp các dịch vụ logistics giản đơn 2PL: làm giao nhận, vận tải, lưu kho, đại lý thủ tục hải quan,... Phần lớn DN trong nước đóng vai trò như những nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các công ty logistics nước ngoài. Thiếu vốn và nhân lực là 2 yếu tố cơ bản làm cho các DN logistics trong nước kém sức cạnh tranh so với DN logistics nước ngoài. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng còn nhiều hạn chế, phần lớn website DN logistics trong nước thiếu các tiện ích mà khách hàng cần như: công cụ theo dõi đơn hàng, theo dõi chứng từ, xem lịch tàu, e-booking,... Hiện nay, các DN trong nước đang phấn đấu nâng cấp độ cung cấp dịch vụ logistics lên 3PL; phát triển logistics điện tử (e-logistics) và quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả. Một số DN trong nước cũng đã tham gia vào mô hình chiến lược 3PL đặc thù như Vinafco, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, Transimex, ITL, Gemadept, Vinalink,...
Ở góc độ sử dụng dịch vụ logistics, phần lớn DN trong nước chưa đánh giá đúng tầm quan trọng và hiệu quả của việc sử dụng dịch vụ logistics, họ thường đồng nhất logistics với dịch vụ vận tải hoặc cho thuê kho bãi và cũng chưa quen sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài. Điều đó dẫn đến chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa tăng cao, giảm sức cạnh tranh đối với hàng nước ngoài.
Một số giải pháp phát triển logistics TP.HCM
Sớm hình thành và phát triển nhanh thị trường dịch vụ logistics trọn gói 3PL dựa trên nền tảng: Hạ tầng bến cảng, kho bãi, giao thông được kết nối tối ưu; Môi trường pháp lý, công tác quản lý nhà nước (về logistics) minh bạch, hiệu quả; Cộng đồng DN logistics chuyên nghiệp, có nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng công nghệ hiện đại, đủ sức cung cấp dịch vụ logistics trọn gói 3PL với giá thành cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của các DN xuất nhập khẩu, phân phối (bán buôn, bán lẻ).
Hình thành mạng lưới trung tâm logistics (trung tâm phân phối hàng hóa) để trung chuyển, cung cấp hàng hóa cho các chuỗi phân phối trong nội thành (siêu thị, cửa hàng bán lẻ,...). Phát triển các trung tâm logistics phục vụ trung chuyển hàng hóa giữa TP.HCM với các tỉnh/thành, hàng hóa xuất - nhập khẩu thông qua địa bàn TP.HCM.
Định hướng phát triển e-logistics, có chính sách hỗ trợ DN ứng dụng kỹ thuật hiện đại trong quản trị logistics; xác định các điều kiện hỗ trợ phát triển nhà cung cấp dịch vụ logistics với hiệu suất và hiệu quả hoạt động cao.
Hình thành mạng lưới trung tâm phân phối hàng hóa để làm nơi tập trung, lưu trữ, cung cấp hàng hóa cho các chuỗi phân phối hoạt động trong nội thành (siêu thị, cửa hàng bán lẻ,...). Những trung tâm này được đặt tại các khu vực đầu mối giao thông như sân bay, bến cảng, ga đường sắt hoặc trên các tuyến đường lớn ở khu vực vùng ven, ngoại thành,... phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, các quy hoạch ngành liên quan và có đủ quỹ đất để thực hiện.
TP.HCM có hệ thống logistics phát triển nhất và có tầm quan trọng nhất trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Trong khi đó, quá trình mở cửa, hội nhập đã thực sự diễn ra rất sâu rộng. Do đó, TP.HCM cần nhanh chóng xây dựng chương trình phát triển logistics, phát triển ngành này như một ngành hạ tầng kinh tế và như một ngành dịch vụ chủ lực.