Quan điểm của các bên
Về vấn đề gia hạn Hợp đồng bảo hiểm, Nguyên đơn cho rằng, Hợp đồng bảo hiểm (Điều 4) quy định thời hạn bảo hiểm “kể từ ngày 01/8/2010 đến ngày 30/11/2012 cộng thêm 12 tháng bảo hiểm cho thời gian bảo hành công trình theo nội dung của Điều khoản bổ sung MR004 doanh nghiệp bảo hiểm sẽ gia hạn thời hạn bảo hiểm không thu thêm phí nếu như thời gian thi công công trình kéo dài được cấp có thẩm quyền phê duyệt” là đã được mặc nhiên gia hạn khi công trình chưa hoàn thành với các văn bản bổ sung ý nghĩa cho nhau, như Biên bản thương thảo, hoàn thiện hợp đồng ngày 10/8/2010 (Điều 3) ghi: “Thời hạn bảo hiểm: Từ ngày khởi công công trình đến khi công trình hoàn thành đưa vào sử dụng cộng thêm 12 tháng bảo hành công trình”, Hợp đồng bảo hiểm (Điều 4) nêu trên, Giấy chứng nhận bảo hiểm xây dựng (Phần II - giống nội dung nêu tại Điều 4 Hợp đồng bảo hiểm). Quy định như vậy cho thấy Hợp đồng bảo hiểm được gia hạn mà không cần phải có yêu cầu gia hạn bằng văn bản gửi đến Bị đơn. Do đó, Bị đơn phải bồi thường cho tổn thất xảy ra ngày 12/11/2015 cũng như tổn thất xảy ra ngày 31/07/2011. Nguyên đơn cho rằng vụ tổn thất ngày 12/11/2015 nằm trong thời hạn bảo hiểm do khi đó công trình đang thi công và chưa hoàn thành. Mặt khác, công trình đã được cấp thẩm quyền cho phép gia hạn thời gian thực hiện đến ngày 30/6/2017 theo Quyết định số 188/QĐ-UBND ngày 25/01/2017 của UBND tỉnh). Theo giải trình của Nguyên đơn thì các bên đã ký gia hạn Hợp đồng bảo hiểm năm 2019 nhưng Nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ cho thấy họ đã làm thủ tục gia hạn với Bị đơn và được Bị đơn chấp nhận thời hạn bảo hiểm mới. Ngoài ra, Nguyên đơn còn cho rằng các bên đã không có cách hiểu thống nhất về việc gia hạn hợp đồng và Bị đơn không phối hợp để gia hạn Hợp đồng bảo hiểm.
Bị đơn đồng ý vụ tổn thất xảy ra ngày 31/7/2011 nằm trong thời hạn bảo hiểm nhưng vụ tổn thất ngày 12/11/2015 thì nằm ngoài thời hạn bảo hiểm. Bị đơn khẳng định rằng đến thời điểm hết thời hạn bảo hiểm của Hợp đồng bảo hiểm, họ không nhận được văn bản đề nghị gia hạn cũng chưa có văn bản chấp nhận gia hạn thời hạn cho hợp đồng này.
Phán quyết trọng tài và bài học kinh nghiệm
Hội đồng Trọng tài nhận thấy Hợp đồng bảo hiểm sẽ được gia hạn miễn thu phí bảo hiểm nhưng với 02 điều kiện: (1) được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thời gian thi công kéo dài và (2) các Bên phải ký văn bản điều chỉnh thời hạn Hợp đồng bảo hiểm. Điều kiện đầu tiên đã được đáp ứng do UBND tỉnh có Quyết định số 188/QĐ-UBND ngày 25/01/2017 chấp thuận cho Nguyên đơn kéo dài thời gian xây lắp đến ngày 30/6/2017. Tuy vậy, không có chứng cứ cho thấy hai bên đã ký văn bản gia hạn Hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy, Hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2012 (vì chưa có hạng mục công trình được bàn giao đưa vào sử dụng để được bảo hiểm bảo hành 12 tháng) cho đến khi các bên ký kết gia hạn hợp đồng. Cho dù việc gia hạn Hợp đồng bảo hiểm không nói rõ bắt đầu từ khi nào thì việc gia hạn này vẫn làm cho hợp đồng vô hiệu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010: “Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong các trường hợp sau đây: ... c) Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra”.
Do đó, Phán quyết Trọng tài khẳng định tổn thất xảy ra ngày 12/11/2015 với thiệt hại ước tính hơn 4,6 tỷ đồng không thuộc phạm vi bảo hiểm vì tại thời điểm gia hạn Hợp đồng bảo hiểm (nếu có) sự kiện bảo hiểm đã xảy ra. Hội đồng Trọng tài chấp nhận yêu cầu của Bị đơn, không chấp nhận yêu cầu xác định trách nhiệm bảo hiểm của Nguyên đơn đối với vụ tổn thất xảy ra ngày 12/11/2015. Lẽ ra, Nguyên đơn và Bị đơn cần liên hệ với nhau khi thời hạn bảo hiểm sắp hết để làm thủ tục gia hạn Hợp đồng bảo hiểm hoặc ký hợp đồng bảo hiểm mới, tránh xảy ra cách hiểu khác nhau, dẫn đến tranh chấp giữa các Bên như đã trình bày ở trên.