Chiều 13/11, tại Phủ Chủ tịch, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì lễ đón Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức Olaf Scholz thăm chính thức Việt Nam từ ngày 13 đến ngày 14/11. Theo chương trình, hai Thủ tướng cũng sẽ tham dự hội nghị bàn tròn với các doanh nghiệp Việt Nam và Đức.
Việt Nam và CHLB Đức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23/9/1975. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước phát triển tích cực, ngày càng sâu rộng, hiệu quả và toàn diện.
Hai nước đã ký nhiều hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế như: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư; các hiệp định hàng hải, hàng không.
CHLB Đức, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại châu Âu
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang CHLB Đức chiếm gần 20% xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Đức cũng là cửa ngõ trung chuyển quan trọng của hàng hóa Việt Nam sang các thị trường khác ở châu Âu. Kim ngạch thương mại hai chiều trong những năm qua; năm 2020 đạt 9,992 tỷ USD; năm 2021 đạt 11,22 tỷ USD. Đến tháng 9/2022 đạt 9,45 tỷ USD.
Việt Nam xuất khẩu sang Đức chủ yếu là điện thoại và linh kiện máy tính, hàng dệt may, giày dép, cà phê, nông thủy sản… và nhập từ Đức chủ yếu là máy móc, thiết bị, dược phẩm, hóa chất, ô tô và phụ tùng ô tô, phương tiện vận tải. Theo số liệu của Cơ quan thống kê Đức, Việt Nam trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Đức tại Đông Nam Á và đối tác lớn thứ 6 của Đức ở châu Á. Đức đóng vai trò tích cực trong quá trình đàm phán và phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA) tại EU. Kim ngạch thương mại hai chiều 9 tháng đầu năm 2022 đạt 9,45 tỷ USD, tăng 16,7 % so với cùng kỳ năm 2021.
Hiện có trên 350 doanh nghiệp Đức hoạt động tại Việt Nam, trong đó có một số tập đoàn đa quốc gia như: Siemens (thiết bị, y tế), B.Braun (thiết bị y tế), Messer (khí hóa lỏng phục vụ luyện kim), Mercedes-Benz (ô tô), Bilfinger (tư vấn, thiết kế), Bosch (chế tạo máy), Deutsche Bank (ngân hàng), Allianz (bảo hiểm)... Tính đến tháng 08/2022, Đức có 431 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là trên 2,31 tỷ USD, đứng thứ 4/24 trong EU và thứ 18/141 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Quy mô dự án của Đức bình quân là 5,3 triệu USD/dự án, thấp hơn mức chung (12,1 triệu USD/dự án).
Hầu hết các dự án của Đức tập trung vào: công nghiệp chế biến, chế tạo (119 dự án; vốn đăng ký 1,2 tỷ USD); sản xuất, phân phối điện, khí (9 dự án, vốn đăng ký 647 triệu USD); bán buôn, bán lẻ và sửa chữa (93 dự án, vốn đăng ký gần 222 triệu USD). Tiếp theo là các dự án trong ngành cấp nước và xử lý chất thải, tài chính ngân hàng, dịch vụ lưu trú, ăn uống…
Các dự án của Đức phân bố tại 39 tỉnh, thành phố của Việt Nam, hầu hết tập trung ở các thành phố lớn, có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối phát triển như Đồng Nai (13 dự án, chiếm 15,7 % tổng vốn đầu tư), Thành phố Hồ Chí Minh (227 dự án, chiếm 14,4 % tổng vốn đầu tư), kế đến là Ninh Thuận, Long An, Quảng Nam, Hà Nội… Một số dự án tiêu biểu gồm: Dự án Nhà máy điện mặt trời Thanh Hóa, vốn đăng ký 190 triệu USD; dự án Công ty Schaeffler Việt Nam, vốn đăng ký 166,7 triệu USD tại Đồng Nai và dự án Nhà máy tách và hóa lỏng khí công nghiệp, tổng đầu tư 130 triệu USD tại Quảng Ngãi.
Tính đến 10/2022, các doanh nghiệp Việt Nam có 36 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Đức với tổng vốn đầu tư và qua điều chỉnh đạt trên 283,3 triệu USD, đứng thứ 14/79 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đầu tư ra bên ngoài. Các dự án tập trung trong lĩnh vực bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy, dịch vụ ăn uống và lưu trú, bất động sản, tài chính - ngân hàng...
Tháng 6/2020, Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Kinh tế và Năng lượng Đức đã ký Bản ghi nhớ về việc thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế với mục đích thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương. Hai bên đã tiến hành kỳ họp thứ nhất cấp Bộ trưởng ngày 12/01/2021 bằng hình thức trực tuyến.
Đức là một trong những nước viện trợ nhiều và thường xuyên ODA cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, Đức đã cung cấp trên 2 tỷ USD cho các dự án ODA tại Việt Nam thông qua hợp tác kỹ thuật (viện trợ không hoàn lại) và hợp tác tài chính (bao gồm viện trợ không hoàn lại - khoảng 40% và tín dụng ưu đãi - khoảng 60%).
Kể từ năm 2013, hai bên đã cùng thống nhất thay đổi các lĩnh vực ưu tiên hợp tác ODA sang 03 lĩnh vực mới trên cơ sở thế mạnh của hai bên, đó là: năng lượng; đào tạo nghề gắn với phát triển kinh tế bền vững; và chính sách môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Các hợp tác mới thuộc 03 lĩnh vực ưu tiên này sẽ áp dụng hình thức tiếp cận theo chương trình; các dự án đơn lẻ sẽ không được ưu tiên xem xét hợp tác, nhường chỗ cho các chương trình mang tính chất chiến lược và tạo khuôn khổ chính sách cho từng lĩnh vực ưu tiên.
Quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – CHLB Đức phát triển tích cực
Từ năm 2020, Việt Nam được xếp là “Đối tác toàn cầu” trong Chiến lược hợp tác phát triển đến năm 2030 (BMZ 2030) của Đức. Hai nước đã mở rộng hợp tác các lĩnh vực trọng tâm thành “Đào tạo và tăng trưởng bền vững cho việc làm có chất lượng”; “Trách nhiệm đối với hành tinh của chúng ta - khí hậu và năng lượng” và “Bảo vệ các cơ sở sống của chúng ta - Môi trường và các nguồn thiên nhiên”, phòng chống đại dịch (ONE HEALTH)... Tại kỳ đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam - Đức ngày 20-23/7/2021, Chính phủ Đức tiếp tục cam kết vốn ODA cho Việt Nam trị giá trên 143,5 triệu Euro trong giai đoạn 2022 - 2023.
Ngoài các hình thức thực hiện chương trình và dự án song phương truyền thống với đối tác chính là Bộ Hợp tác phát triển (BMZ), Bộ Môi trường, Bảo tồn thiên nhiên và An toàn hạt nhân Đức đã cam kết hỗ trợ Việt Nam thông qua một số chương trình hợp tác khác như Quỹ Năng lượng và Khí hậu (EKF), Quỹ Khí hậu xanh (GCF) và Chương trình Sáng kiến về khí hậu và bảo vệ môi trường IKLU. Kể từ năm 2008, thông qua Sáng kiến Khí hậu quốc tế của Đức (IKI), hai bên đã và đang cùng triển khai 78 dự án về BĐKH và đa dạng sinh học, trong đó có 16 dự án song phương với vốn tài trợ trị giá khoảng 44 triệu Euro. Một trong những dự án hợp tác tiêu biểu là “Hỗ trợ Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris” (VN-SIPA), hỗ trợ rà soát, cập nhật văn kiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam gửi cho Công ước khung của LHQ về BĐKH; rà soát, cập nhật Chương Ứng phó với BĐKH trong Luật Bảo vệ Môi trường 2020, tạo hành lang pháp lý quan trọng để thực thi công tác quản lý nhà nước về BĐKH.
Đức là một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực dạy nghề, đã hỗ trợ Bộ LĐTBXH xây dựng chiến lược dạy nghề quốc gia, soạn thảo Luật Dạy nghề cũng như xây dựng các trường dạy nghề kiểu mẫu ở một số địa phương theo mô hình đào tạo nghề song hành rất thành công của Đức.
Trong khuôn khổ Chương trình “Make it in Germany” về hợp tác lao động quốc tế của Đức, giai đoạn 2013 - 2015, Việt Nam đã triển khai thí điểm đưa điều dưỡng viên sang Đức đào tạo và làm việc (hợp đồng 3 năm sau khi tốt nghiệp đào tạo tại Đức). Tiếp nối thành công của Chương trình này, phía Đức đã quyết định mở rộng tiếp nhận điều dưỡng viên Việt Nam sang Đức. Từ năm 2015 đến nay, trên 2.500 lao động Việt Nam đã sang Đức đào tạo và làm điều dưỡng viên đa khoa tại Đức .
Ở lĩnh vực tài chính, trong khuôn khổ chương trình “Cải cách kinh tế vĩ mô Việt Nam” giai đoạn 2006 - 2014, Chính phủ Đức hỗ trợ Ủy ban chứng khoán nhà nước thực hiện một số nội dung xây dựng Luật chứng khoán, tư vấn về nâng cấp các Trung tâm giao dịch chứng khoán thành Sở Giao dịch chứng khoán. Từ năm 2015, Chính phủ Đức tiếp tục hỗ trợ Việt Nam cải cách thể chế và tăng cường năng lực cho hệ thống tài chính - ngân hàng, hỗ trợ quá trình chuyển đổi số ngành ngân hàng Việt Nam; phát triển thị trường trái phiếu xanh, các sản phẩm dịch vụ tài chính - ngân hàng xanh, góp phần thực hiện Chiến lược Tăng trưởng xanh.
Từ năm 2003, Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Berlin và Đức cử Tùy viên Quốc phòng tại Thái Lan kiêm nhiệm Việt Nam. Kể từ tháng 9/2019, Đức chính thức cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Việt Nam. Hai bên tích cực hợp tác triển khai các hoạt động trao đổi đoàn, chuyên gia, học viên và chia sẻ kinh nghiệm tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ. Lần đầu tiên trong lịch sử hai nước, Đức đã cử chiến hạm Bavaria thăm Bến cảng Nhà Rồng, TP Hồ Chí Minh trong hải trình tới khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong thời gian từ 06-09/01/2022.
Những hoạt động hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực tư pháp - pháp luật đã được khởi đầu từ năm 1996. Năm 2008, Chính phủ hai nước đã ký Tuyên bố chung về hợp tác trong lĩnh vực này. Trên cơ sở Tuyên bố chung, Bộ Tư pháp hai nước đã ký kết các văn kiện và triển khai Chương trình Đối thoại về Nhà nước pháp quyền cho các giai đoạn 2009 - 2011, 2012 - 2014 và 2015 - 2018, 2019 - 2022. Gần đây nhất, ngày 07/10/2022, Bộ Tư pháp Việt Nam và Bộ Tư pháp, Bảo vệ người tiêu dùng Đức đã ký kết Chương trình hợp tác 3 năm Đối thoại Nhà nước pháp quyền giai đoạn 2022-2025. Trong khuôn khổ các chương trình này, hai bên đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, các đoàn đi nghiên cứu, khảo sát… đạt kết quả thiết thực, góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính, tư pháp của Việt Nam.
Về văn hóa, năm 1990, Việt Nam và Đức ký Hiệp định Hợp tác văn hoá tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác và trao đổi văn hóa giữa hai nước. Năm 1997, Đức thành lập Trung tâm Văn hóa Đức (hay còn còn gọi là Viện Gớt) tại Hà Nội. Đây là địa điểm thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm giới thiệu văn hóa Đức và giảng dạy tiếng Đức tại Việt Nam. Trong những năm lại đây, các hoạt động giao lưu văn hóa - nghệ thuật giữa hai nước diễn ra rất sôi động. Đức hỗ trợ Việt Nam thực hiện một số dự án về bảo tồn, phục chế các di sản văn hóa tại cố đô Huế; dự án “Triển lãm Báu vật khảo cổ học Việt Nam” diễn ra tại Đức từ 10/2016-2/2018 được Bộ trưởng Ngoại giao Đức và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đồng bảo trợ.
Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo với Đức được bắt đầu từ năm 1955 với CHDC Đức và từ năm 1990 với Đức. Hàng năm, Đức cung cấp cho Việt Nam nhiều học bổng đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ. Hiện có khoảng 300 nghiên cứu sinh Việt Nam nhận học bổng nghiên cứu tại Đức và khoảng 7500 sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường đại học của Đức. Ngoài ra, từ năm 1993, Bộ Khoa học và Nghệ thuật bang Hessen thông qua Tổ chức Hỗ trợ Đại học thế giới Đức (WUS) hàng năm đã cấp 150 suất học bổng cho sinh viên đạt kết quả học tập xuất sắc của một số trường cao đẳng và đại học của Việt Nam.
Dự án “hải đăng” của hai nước trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo là Trường Đại học Việt Đức, được thành lập từ tháng 9/2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động theo mô hình của đại học Đức, với sự hỗ trợ tích cực của bang Hessen (Đức) và Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD) thông qua các hình thức cung cấp giảng viên, giáo trình. Năm 2010, Chính phủ Việt Nam phê duyệt xây dựng trụ sở Trường Đại học Việt Đức tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Dự án được khởi công xây dựng vào tháng 10/2016 với nguồn vốn vay trị giá khoảng 200 triệu USD của Ngân hàng Thế giới và đã hoàn thành vào tháng 5/2021. Ngày 23/9/2020, Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Đức và Chính quyền bang Hessen đã ký Hiệp định về Phát triển và Mở rộng Trường Đại học Việt - Đức, cụ thể hóa cam kết, trách nhiệm của các bên đối với Trường và là cơ sở để phía Đức tiếp tục tài trợ cho Trường Đại học Việt Đức.
Ngày 17/7/2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký với Bộ Ngoại giao Đức Thỏa thuận hợp tác chương trình triển khai sáng kiến “Trường học đối tác của tương lai” (PASCH) nhằm hỗ trợ đưa tiếng Đức vào giảng dạy tại một số trường phổ thông của Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 240/QĐ-BGDĐT ngày 21/01/2016 về việc phê duyệt Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Đức - ngoại ngữ 2 theo “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020”. Đến nay, đã có 14 trường THPT tại Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh đưa bộ môn tiếng Đức vào giảng dạy.
Khoa học công nghệ: Trước năm 1995, hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và Đức được thực hiện chủ yếu thông qua các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ nghiên cứu với sự tài trợ của Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD), Quỹ khoa học trẻ Alexander & Humboldt, Quỹ đào tạo chuyên gia trong ngành công nghiệp (CDG), Quỹ phát triển (DSE)... Bộ KHCN Việt Nam cùng Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức (BMBF) đã ký Nghị định thư hợp tác nghiên cứu khoa học năm 1997. Trước năm 2010, hợp tác hai nước tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu biển, công nghệ xử lý nước và môi trường. Từ năm 2011, trong khuôn khổ Chương trình khung Nghiên cứu vì sự phát triển bền vững của Đức, BMBF đã triển khai Chương trình hợp tác nghiên cứu “Quan hệ đối tác quốc tế cho công nghệ và dịch vụ bền vững để bảo vệ khí hậu và môi trường”, trong đó Việt Nam là một trong các nước ưu tiên hợp tác. Hai bên đã thiết lập Tổ công tác gồm đại diện Bộ KHCN Việt Nam và BMBF Đức và tiến hành họp luân phiên 5 lần. Sau khi hai nước ký Hiệp định hợp tác KHCN ngày 25/11/2015 (có hiệu lực từ ngày 20/3/2017), Tổ công tác được nâng cấp thành Ủy ban hỗn hợp về hợp tác KHCN.
Việt Nam và Đức hiện đang hợp tác, triển khai 4 chương trình hợp tác nghiên cứu bao gồm: Chương trình Đổi mới sáng tạo dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ZIM), Chương trình Y tế và phát triển đô thị bền vững, Chương trình Client II - Đối tác quốc tế về Đổi mới bền vững (bảo vệ khí hậu, sử dụng hiệu quả nguồn lực, quản lý đất, quản lý nước) và Chương trình Kinh tế sinh học.
Hợp tác y tế, phòng chống đại dịch COVID-19: hai bên đã hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong phòng chống COVID - 19. Sau khi dịch bệnh bùng phát, tháng 4/2020, Chính phủ Việt Nam đã trao tặng Chính phủ Đức 100.000 khẩu trang kháng khuẩn. Tiếp đó, nhiều cơ quan, tổ chức Việt Nam cũng đã trao tặng khẩu trang và trang thiết bị y tế cho các đối tác Đức. Ở chiều ngược lại, trong năm 2021, Chính phủ Đức đã viện trợ cho Việt Nam hơn 10 triệu liều vắc-xin phòng COVID qua cơ chế song phương và COVAX và 75 máy thở. Nhiều địa phương của Đức như Hamburg, Bremen, Sachsen-Anhalt, Mecklenburg-Vorpommern, Hessen... đã trao tặng hàng trăm ngàn kít xét nghiệm và trang thiết bị y tế cho Việt Nam.
Đến nay Đức nằm trong top 10 thị trường có mức chi tiêu lớn nhất của Du lịch Việt Nam. Từ ngày 01/7/2015, Việt Nam đã thí điểm miễn thị thực cho công dân Đức đi du lịch Việt Nam trong thời gian 15 ngày. Trong giai đoạn trước đây, số lượng khách Đức du lịch Việt Nam có xu hướng tăng dần và đạt khoảng 214.000 người vào năm 2019. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, lượng khách Đức đến Việt Nam năm 2020 đạt 61.500 người, giảm 71,3 % so với năm 2019.
Bên cạnh quan hệ với Việt Nam ở cấp Chính phủ, các bang ở Đức rất chủ động tăng cường hợp tác với Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã đón nhiều Lãnh đạo các bang của Đức sang thăm Việt Nam như Thủ hiến các bang Brandenburg (2005), Bayern (2007), Mecklenburg-Vorpommern (2007), Baden - Württemberg (2010), Sachsen (2011), Hessen (2008, 2012), Berlin (2013), Thüringen (2019). Hiện nay nhiều bang, địa phương của Đức đã thiết lập quan hệ hợp tác chính thức với Việt Nam hoặc với các địa phương của Việt Nam.
Cộng đồng Việt Nam ở Đức hiện có gần 200.000 người, sinh sống rộng khắp trên toàn lãnh thổ Đức. Nhìn chung, kiều bào ở Đức có cuộc sống tương đối ổn định, đa số theo diện làm công ăn lương hoặc buôn bán nhỏ. Thế hệ người Việt thứ hai ở Đức hội nhập khá thành công, được chính quyền sở tại đánh giá cao so với các cộng đồng nhập cư ở Đức (hơn 50% học sinh đỗ trung học hạng ưu, nhiều em là thành viên các đội tuyển học sinh xuất sắc của Đức như toán, võ thuật, thơ, văn, nhạc...).
Các hình thức tập hợp hội đoàn của người Việt khá đa dạng như Hội người Việt Nam, các hội đồng hương, câu lạc bộ thơ - văn, nhiếp ảnh, tổ chức xã hội từ thiện… Một số hội đoàn tiêu biểu là Hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Đức (thành lập năm 2011); Hội Sinh viên Việt Nam (thành lập tháng 8/2012); Hội Phật tử Việt Nam... Đa số các tổ chức hội đoàn của người Việt có tinh thần yêu nước, là cầu nối quan trọng giữa các CQĐD của Việt Nam tại Đức và cộng đồng, tích cực vận động bà con hướng về quê hương và tham gia các phong trào quyên góp ủng hộ nạn nhân dioxin, ủng hộ các chiến sĩ ở hải đảo, tương trợ đồng bào lũ lụt v.v… Hiện nay, một số bang của Đức như Brandenburg, Berlin, Sachsen và Sachsen-Anhalt đã cho phép đưa tiếng Việt như một ngoại ngữ tự chọn vào giảng dạy ở một số trường phổ thông.