Ngay từ bìa sách, Bùi Ngọc Diệp đã viết cho mình lời tuyên ngôn giản dị mà hào sảng: “Thơ vô tận đời thì có vận/ Ta gửi hộ đời vào mấy vần thơ…”. Ở Lời ngỏ, nhà thơ Lê Huy Mậu nhận diện rất đúng bản chất tiếng nói ấy: thơ “giản dị, đi thẳng vào lòng người đọc”, giữ “cái được là nó chân thật, trong sáng”. Nhìn toàn tập và thêm các sáng tác tác giả gửi riêng – chân dung thơ Bùi Ngọc Diệp hiện lên với ba đường gân chủ: ký ức người lính – đạo đức doanh nhân – mỹ cảm đời thường.
“Ký ức người lính”: từ Miền Đông, Ăngkor đến Gạc Ma
Miền Đông nhớ quê là một lát cắt hiếm thấy của tuổi học trò trước giờ ra trận. Những câu mở đầu giữ nguyên độ run rẩy của tay nắm, của hơi thở thanh xuân:
“Đêm Miền Đông nằm nhớ về quê/ Cô nữ sinh nắm tay anh chặt/ Bẽn lẽn không cười, áp má ngực anh/ Anh đi đi, anh đi khỏe nhé…”
Cặp “kỷ vật học trò” – “một gói con con bao giấy học sờn/ Khăn mùi xoa em nằm trong đó” … với hy vọng làm mềm chiến tranh bằng mùi giấy vở (tr. 6).
Ăngkor hồi sinh mở bằng tiếng thét đạo lý: “Nó diệt chủng rồi! Ôi thằng Pônpốt/ Tiếng thét căm hờn, uất hận bơ vơ…” (khổ 1, tr. 17). Ở khổ sau, tác giả gọi Việt Nam bằng chữ “bạn” để nhấn mạnh nhân phẩm bình đẳng của tình trợ giúp: “Chỉ Việt Nam… ơi hỡi Việt Nam/ Bạn của ta giàu lòng nhân ái… Cứu đất Cam, cứu nền Ăngkovat” (khổ 2, tr. 18). Cái nhìn ấy đặt chiến công trong quỹ đạo nhân đạo, chứ không tô đậm chủ nghĩa “ban ơn”.
Vòng tròn bất tử là một trường ca ngắn về Gạc Ma. Màn thứ nhất dựng bối cảnh: “Đất nước Tôi/ Sau năm 75 tưởng chừng yên ả/ Sạch bóng xâm lăng một dải thanh bình…” (khổ 1, tr. 37). Màn thứ hai chuyển sang biên giới Tây Nam rồi trở lại Biển Đông: “Biên giới Tây Nam: Thổ Chu, Vĩnh Tế… Máu dân lành, xác trẻ em lại đổ” (khổ 2, tr. 37). Màn thứ ba là biểu tượng hóa: “Họ kết thành vòng tròn bất tử giữ đảo thân yêu… Ôi vòng tròn, vòng trắng Gạc Ma/ Đã bay lên thành vòng tròn bất tử” (tr. 39). Sự kiện được nâng lên thành biểu tượng hình học – “vòng tròn” – để ký thác ý niệm đoàn kết, bất bạo động mà bất khuất.
“Đạo đức”: sử thi riêng của một thế hệ doanh nhân
Ở Doanh nhân, cấu trúc điệp “Có một thời…” dựng biên niên kinh tế từ “phe phẩy, tem phiếu” đến “cổ phiếu, lạm phát, ngân hàng”:
“Có một thời bãi hoang sinh lầy lội/ Ta đắp đê, san lấp, rửa thau phèn/ Tôm cá sinh sôi, cây trái mọc xanh chồi/ Ta trở thành mô hình kinh tế mới”
(tr. 20);
“Giá cả leo thang, lạm phát top đầu… Nén nỗi đau ta xây dựng lại/ Chí làm giàu ta vượt cạn biển Đông” (tr. 22).
Vốn từ “kỹ trị” (kỹ thuật, công nghệ, ngân hàng, cổ phiếu…) đi vào thơ tự nhiên – một lựa chọn thẩm mỹ hiếm thấy ở thơ đương đại, giúp ký lục hóa khí hậu thương trường giai đoạn đổi mới.
Tình đồng chí đối mặt thẳng với cám dỗ quyền – tiền hậu chiến:
“Quyền cao chặn lối tình đồng chí/ Dự án đong đầy Bạn vực sâu” (khổ 2, tr. 29).
Nhưng kết lại là một mệnh lệnh đạo đức: “Thôi về mài bút, châm thêm mực/… Giục giã trong lòng tiếng gọi Dân” (khổ cuối, tr. 29). “Đồng chí” vì thế không chỉ là kỷ niệm chiến hào mà là chuẩn mực hành xử ở thì hiện tại.
Tản mạn về đời cho thấy “vốn văn hóa” của tác giả khi kéo cả Thị Kính – Thạch Sanh – Từ Hải – bà Phán – cậu Xuân (nhân vật Vũ Trọng Phụng, chú thích dưới trang) vào hệ quy chiếu đạo lý:
“Một tếu vui cười, một Thị Kính ức oan/ Một Thạch Sanh, một anh Từ Hải… Sách bút này ghi lại tại tâm/ Đời vẫn thế – sao đời không thế?” (tr. 44).
Giọng trào lộng nhẹ mà thấm: ông tin vào văn minh sổ sách – “ghi lại tại tâm” – như một cách tự kiểm.
Ở bình diện tiểu vùng văn hóa – đô thị, chất địa tình Vũng Tàu là suối nguồn cảm hứng của Bùi Ngọc Diệp. Bài “Vũng Tàu điểm hẹn bốn phương” ngợi ca một không gian đang chuyển hóa, từ “cáp treo”, “Nghinh Phong”, “Chí Linh – Cửa Lấp” đến “hóa dầu Long Sơn”, “cảng dầu”, “đặc khu kinh tế thương trường”: “Biển xanh cát trắng cảng dầu/ Thành nơi điểm hẹn bạn bè bốn phương”. Bút pháp liệt kê – địa danh học – làm hiện lên một đô thị kinh tế biển đang vươn dài ra thế giới.
“Mỹ cảm đời thường”: khi thơ đi bằng đôi chân hoa lá, tình người
Hồng hoa như một “étude” màu sắc: “Trắng vàng xanh đỏ tím huyền nhung/ Gai dày nâu tía theo gần búp” (khổ 1, tr. 33). Nhưng câu kết thở dài: “Sớm nụ, lâu tàn, bạc cánh qua” (khổ 2, tr. 33). Ở đây, mỹ học của ông là chân thực hóa vô thường: cái đẹp phải đi cùng tri thức về phai tàn.
Tuổi - Xuân - Thơ tổng kết mỹ học ấy thành tam đề: “Ta nói rằng: Tình, Tuổi và Thơ”. Những định nghĩa bằng phủ định (“Thơ không người, thơ chẳng ra thơ”) dẫn tới kết luận: “Song chỉ có một sắc xuân còn mãi/ Xuân lòng người, xuân chẳng có thời gian” (tr. 127).
Hội ngộ bên hồ một cuộc gặp giữa “anh giải phóng quân” và “tổng trưởng kinh tài” – GS.TS. Nguyễn Tiến Hưng – giữa Hồ Gươm ngày 30-4-2014. Lời thơ chọn ngữ điệu hòa giải:
“Bên tách Caffe chuyện thế thái nhân tình/ Cứ chảy từng trang theo dòng lịch sử/ Mong vượng hưng cho đất nước Việt mình”.
Phần “ký ức – tản văn” đi kèm cho thấy ý hướng đối thoại tỉnh táo, tôn trọng khác biệt để cùng hướng tới phát triển.
Giọng thơ và kỹ pháp
- Phóng sự trữ tình: các bài về chiến tranh – làm ăn – đô thị luôn đứng trên nền sự kiện và chi tiết, rồi mới cất nhịp trữ tình (miêu tả khí phách Gạc Ma bằng hình ảnh “vòng tròn”).
- Biểu tượng đạo đức: “đồng chí”, “vòng tròn”, “mài bút”, “tiếng gọi Dân” là những từ-khóa giá trị, vận hành như mốc neo nhân cách cho người lính – doanh nhân ở thì hiện tại (tr. 29; tr. 39).
- Địa danh học thi ca: từ Nghinh Phong, Chí Linh, Cửa Lấp, Long Sơn (Vũng Tàu) đến Thổ Chu, Vĩnh Tế, Tây Ninh (biên giới) và Gạc Ma, Hoàng Sa (hải sử) – địa danh không chỉ để định vị không gian mà còn là tọa độ đạo đức (ghi nhớ mất mát, kiến tạo niềm tin). Ở chiều ngược lại, hệ địa danh Vũng Tàu làm nền cho bản sắc đô thị biển đang kiến tạo (“Vũng Tàu điểm hẹn bốn phương”).
Tiếp nhận đồng đại: “Doanh nhân – Nhà thơ” trong mắt cộng đồng
Không chỉ cộng đồng văn chương, cộng đồng doanh nhân cũng đọc Bùi Ngọc Diệp như một người “truyền lửa”. Bài thơ Doanh nhân nhà thơ của nhà báo Đỗ Văn Hiếu viết tặng đã gọi ông là “người anh lớn giữa làng doanh nhân”, kể dấu ấn kiến thiết đô thị du lịch Vũng Tàu (Mỹ Lệ, Bãi Sau, biểu tượng cá Ông, hoạt động Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa - SME…) và “tài trí doanh nhân trong lòng thi nhân”, dẫn lại chính bài “Doanh nhân” như một tuyên ngôn nghề nghiệp bằng thơ. Đây là một lát cắt tiếp nhận – phê bình của cộng đồng nghề đối với thơ và nhân cách Bùi Ngọc Diệp.
Trong biên độ ấy, tập Thơ Bùi Ngọc Diệp – cùng các bài tác giả gửi riêng đã trở thành một biên niên cảm xúc của một thế hệ Việt Nam: đi qua chiến tranh, mở cửa với kinh tế thị trường, giữ ký ức biển đảo và chọn cách lớn lên bằng văn hóa. Và trong những trang ấy, người lính học cách làm ăn, người doanh nhân học cách làm người, còn người đọc học cách nhớ. Mỗi bài thơ là một “chứng thư” công dân và cũng là một lời hẹn mùa sau: giữ được sự trong trẻo của xúc cảm, sự thẳng thắn của đạo lý, giản dị mà không dễ dãi. Bởi vậy, tập thơ không khép lại mà mở ra: những cuộc đối thoại với quá khứ, những dự phóng cho tương lai và một bổn phận sống đẹp hôm nay. Những vần thơ tiếp tục “gửi hộ đời”, để ký ức hóa thành năng lượng tinh thần, để chúng ta biết cách đi tới - điềm tĩnh, tử tế và kiêu hãnh.