Hợp tác công nghệ giữa Nyshex và Hapag-Lloyd
NYSHEX đã hợp tác với Hapag-Lloyd để số hóa các hợp đồng Sản phẩm vận chuyển chất lượng (QFP) của mình.
NYSHEX cung cấp các dịch vụ báo cáo hiệu suất và giải quyết ngoại lệ cho các tuyến container chính và có thể đóng góp vào dịch vụ của hãng vận tải Đức, vì việc lắp đặt các thiết bị theo dõi và đo từ xa trên đội tàu container khô của tuyến có nghĩa là nó sẽ có khả năng số hóa các hợp đồng này.
Henrik Schilling, MD - phát triển thương mại toàn cầu Hapag-Lloyd, cho biết: “Giải pháp do NYSHEX cung cấp kết hợp công nghệ, dữ liệu và phân tích theo cách sẽ giúp chúng tôi và khách hàng giám sát tốt hơn việc thực hiện hợp đồng và giải quyết mọi vấn đề có thể phát sinh. Chúng tôi rất vui mừng về sự hợp tác này”.
Hapag-Lloyd cho biết động thái này sẽ cho phép “hiển thị gần thời gian thực” về hiệu suất hợp đồng và sẽ làm nổi bật các vi phạm hợp đồng trong “gần thời gian thực”, đồng thời cho biết thêm cần phải cải thiện việc thực hiện hợp đồng vì các chế độ báo cáo tĩnh hiện tại không đủ để đáp ứng nhu cầu của người gửi hàng.
Giám đốc điều hành NYSHEX Gordon Downes cho biết: “QFP của Hapag-Lloyd là một hợp đồng thực hiện được đảm bảo, đặc biệt phù hợp với nhu cầu của khách hàng và giờ đây chúng tôi sẽ có thể nâng cao trải nghiệm của khách hàng”.
Với túi tiền dồi dào, sau sự hỗn loạn chuỗi cung ứng của những năm sau đại dịch, hãng vận tải có trụ sở tại Hamburg dường như đang theo đuổi USP về đảm bảo chất lượng, chủ yếu thông qua việc tăng cường tính minh bạch cho các chủ hàng. Biện pháp QFP được sắp xếp hợp lý theo sáng kiến gần đây nhằm trang bị cho đội tàu vận chuyển container các thiết bị theo dõi và đo từ xa, bắt đầu vào tuần này.
“Công nghệ của chúng tôi đặt niềm tin và độ tin cậy làm cốt lõi của việc thực hiện hợp đồng. Cách tiếp cận không có ma sát này sẽ cho phép Hapag-Lloyd tối ưu hóa mạng lưới toàn cầu của mình và hỗ trợ những lời hứa về chất lượng của nó”, ông Downes nói thêm.
Số hóa Logistics Việt Nam
Việt Nam hiện đã trở thành thành viên của 16 Hiệp định thương mại tự do; trong đó có những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với tầm cỡ và quy mô lớn như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP)...
Chính những xu hướng mới này đã, đang và sẽ tạo đà cho hoạt động logistics trong nước phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là thời cơ vàng để các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính mình trong lĩnh vực này.
Do những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, năm 2020-2021, tạo ra nhiều “sóng gió” đối với nền kinh tế toàn cầu; trong đó có Việt Nam.
Cũng như nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế, ngành logistics cũng chịu chung sức ép ấy với những ảnh hưởng tiêu cực khi chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy và mối liên kết giữa các doanh nghiệp trở nên rời rạc, lỏng lẻo.
Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) từng có báo cáo rằng, vào tháng 3/2020, khoảng 15% doanh nghiệp logistics Việt Nam bị giảm 50% doanh thu so với cùng kỳ năm 2019; hơn 50% doanh nghiệp giảm số lượng dịch vụ logistics trong nước và quốc tế từ 10 - 30% so với cùng thời điểm.
Tuy nhiên, đáng mừng là nhờ kiểm soát khá tốt tình hình dịch bệnh, cộng đồng doanh nghiệp Việt nói chung và doanh nghiệp logistics nói riêng đã có nhiều thuận lợi trong quá trình phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp logistics dần dần được cải thiện đáng kể. Năng lực hoạt động của 87% số doanh nghiệp của ngành này tại cùng thời điểm nói trên đạt mức trên 60% so với trước thời điểm đại dịch diễn ra.
Điều đáng mừng là một số doanh nghiệp lớn đã áp dụng thành công giải pháp công nghệ mang lại hiệu quả cho dịch vụ logistics và giảm đáng kể chi phí liên quan như cảng điện tử (ePort), lệnh giao hàng điện tử (eDO), số hóa chứng từ vận tải (Invoicing and Payments), đầu tư vào ứng dụng giải pháp tổng thể trong dịch vụ logistics (Saas), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), nhà kho thông minh (Smart Warehousing)…
Nhờ vậy, 58% nhà cung cấp dịch vụ logistics đã rút ngắn lộ trình công nghệ. Mô hình làm việc từ xa cũng đang được các doanh nghiệp trong ngành áp dụng nhằm đảm bảo an toàn y tế và lao động tại nơi làm việc.
Với sự hỗ trợ của công nghệ, ngành logistics không còn bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý và đã trở thành logistics xuyên biên giới.
Nhiều chuyên gia vẫn cho rằng, về dài hạn, các doanh nghiệp cần áp dụng công nghệ trong kinh doanh nhiều hơn như việc số hóa để cải thiện mô hình làm việc và công tác vận hành doanh nghiệp có thể thích nghi với thời cuộc.
Việc tăng cường ứng dụng công nghệ với những tiến bộ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang được đa số doanh nghiệp kỳ vọng sẽ làm thay đổi ngành logistics nhiều nhất với những lợi ích hàng đầu.