Sáng 23/10, Hội nghị toàn quốc trực tiếp kết hợp với trực tuyến quán triệt và triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 7/10/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Bộ Chính trị tổ chức.
Đông Nam bộ đặc biệt quan trọng
Vùng Đông Nam Bộ bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh trực thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, là vùng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
Với những tiềm năng, lợi thế vượt trội, sau 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trong vùng đã phát huy truyền thống đoàn kết, cách mạng và tinh thần đổi mới, sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, liên tục phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Nổi bật là năm 2020, quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của vùng Đông Nam Bộ tăng gấp 4,9 lần so với năm 2005 và gấp 2,6 lần so với năm 2010, vượt mục tiêu đề ra. Vùng Đông Nam Bộ đã đóng góp 32% GDP của cả nước, 44,7% tổng thu ngân sách nhà nước. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 cao nhất cả nước.
Cơ cấu kinh tế của vùng chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh; tỉ trọng khu vực dịch vụ vượt mục tiêu đề ra; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao nhất cả nước.
Nghị quyết số 24-NQ/TW xác định rõ mục tiêu đến năm 2030: Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực.
Đi đầu đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế, xã hội số. Phát triển hệ thống đô thị thông minh và hiện đại. Cơ bản hoàn thành hệ thống giao thông kết nối nội vùng, liên vùng và khu vực; đầu mối giao thương, hội nhập khu vực và thế giới.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục-đào tạo, y tế phát triển đứng đầu cả nước. Tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông và ngập úng cơ bản được giải quyết. Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc; tổ chức Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường…
Tầm nhìn đến năm 2045 được Nghị quyết xác định là: Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển, có tiềm lực kinh tế mạnh, cơ cấu kinh tế hiện đại; trung tâm khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế thuộc nhóm đầu khu vực và thế giới; kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh; có chất lượng cuộc sống cao, có trình độ y tế, giáo dục thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á…
Từ mục tiêu nêu trên, Nghị quyết đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về: Phát triển nhanh, bền vững tạo bước đột phá, lan tỏa trong phát triển kinh tế vùng, liên vùng. Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách và đẩy mạnh phát triển liên kết vùng. Phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đô thị. Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại. Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm thật vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm; trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, của toàn Vùng, của từng địa phương trong Vùng; của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Dịch vụ logistics phát triển chưa tương xứng
Xin nhắc lại Đông Nam Bộ có tiềm năng rất lớn nhưng còn rất nhiều tồn tại, bất cập mà vùng cần khắc phục như phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao còn phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư nước ngoài; tỷ lệ nội địa hóa các ngành chế tạo, điện tử tin học, viễn thông, điện tử chuyên dụng đạt thấp (chỉ từ 5-15%); năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Dịch vụ logistics phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng; chi phí logistics còn cao; sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất - xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics hiệu quả thấp; chưa hình thành được các trung tâm logistics quy mô lớn, có vai trò trung chuyển hàng hóa đa phương thức của vùng. Tắc nghẽn về giao thông, hạn chế về cơ sở hạ tầng và thiếu sự kết nối, hợp tác liên kết vùng - là những nút thắt phát triển logistics của vùng Đông Nam Bộ.
Để khắc phục các hạn chế nêu trên, cần thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giúp vùng tiếp tục phát triển hiệu quả các điểm tiềm năng, lợi thế của vùng trong phát triển công nghiệp, công nghệ cao và dịch vụ logistics gồm:
Thứ nhất, đẩy nhanh việc xây dựng hoàn thành quy hoạch các tỉnh, thành phố và quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021-2030, trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh, đảm bảo cân đối vùng, miền và phù hợp với định hướng quy hoạch quốc gia, các quy hoạch ngành quốc gia, trong đó cần xác định việc ưu tiên phát triển công nghiệp, công nghệ cao và logistics là điều kiện quan trọng, xu thế tất yếu để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. Theo đó cần xây dựng các định hướng chiến lược, kế hoạch phát triển phù hợp và bố trí không gian hợp lý nhằm khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, khắc phục hạn chế về liên kết vùng và khai thác phát huy tối đa tiềm năng lợi thế của cả vùng và từng địa phương.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu đề xuất các cơ chế chính sách đồng bộ, đủ mạnh và khả thi, nhằm đa dạng hóa các hình thức đầu tư để thúc đẩy phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, đặc biệt là hình thành các định chế tài chính mới xứng tầm khu vực ASEAN tại TP.HCM; phát triển hạ tầng giao thông và hạ tầng trung tâm logistics, đảm bảo tính kết nối nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của vùng; đồng thời chủ động tạo quỹ đất sạch và hạ tầng đồng bộ tại các khu, cụm công nghiệp để thu hút các công ty, tập đoàn kinh tế lớn, có kinh nghiệm, uy tín năng lực về tài chính, công nghệ và quản trị, có năng lực tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu vào đầu tư sản xuất kinh doanh ổn định, lâu dài, góp phần đưa vùng Đông Nam Bộ thật sự trở thành trung tâm phát triển công nghiệp, công nghệ cao, trung tâm dịch vụ logistics của đất nước khu vực và thế giới.
Thứ ba, chú trọng quy hoạch và đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, chủ động xây dựng, hoàn thiện hạ tầng xã hội, đáp ứng tốt nhất các nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống - sinh hoạt của người lao động; có chính sách hỗ trợ đầu tư cho một số trường đại học - cao đẳng nghề trọng điểm trong vùng để nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ, nhất là các công nghệ cơ bản và xây dựng các chương trình đào tạo tiên tiến về công nghiệp, công nghệ cao và logistics; chú trọng đào tạo theo modul, gắn đào tạo với thực hành để hình thành đội ngũ người lao động tinh thông kiến thức, tay nghề, kỹ năng và có tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới.
Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện liên kết vùng trong phát triển các ngành công nghiệp, công nghệ cao và hệ thống logistics, nhất là liên kết hạ tầng giao thông, hệ thống trung tâm lưu chuyển hàng hóa đến các trung tâm logistics và liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất - xuất nhập khẩu với doanh nghiệp logistics. Tạo cơ chế đột phá để xây dựng các tập đoàn mạnh về logistics. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại, đẩy mạnh phân phối hàng hóa qua nền tảng số và các kênh thương mại điện tử; đồng thời tiếp tục khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã ký kết để phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu, đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp, công nghệ cao và dịch vụ logistics.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng rà soát, tiếp tục cắt giảm mạnh mẽ, phân cấp nhiều hơn và xây dựng chế tài, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc hành chính; chú trọng nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 ở hầu hết thủ tục, hướng đến phát triển chính quyền số, nhằm rút ngắn thời gian và tiết giảm thực chất chi phí cho doanh nghiệp, người dân, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế thu hút đầu tư của các địa phương trong vùng.
Để tiếp tục thúc đẩy vùng Đông Nam Bộ phát triển tương xứng với vai trò là “đầu tàu”, “cực động lực”, “cần cần ráo riết chỉ đạo, khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong Vùng” như chỉ đạo của Tổng Bí Thư; đồng thời có cơ chế điều phối vùng và cơ chế đối thoại thường xuyên - đột xuất giữa các bộ, ngành với các địa phương, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn - vướng mắc; khai thác có hiệu quả các tiềm năng - lợi thế của vùng cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.