Ngay trong đầu quý IV/2022, nền kinh tế phải đối mặt những khó khăn lớn, có nguy cơ ảnh hưởng đến cả ngắn hạn và trung hạn như áp lực tỷ giá, lãi suất tăng cao, bất ổn trên thị trường vốn,... Bắt đầu có hiện tượng doanh nghiệp thiếu đơn hàng, phải giãn, giảm lao động, chi phí sản xuất gia tăng và thiếu thanh khoản. Trong năm 2023, dự kiến những khó khăn này sẽ là thách thức lớn đối với mục tiêu tăng trưởng 6 - 6,5% như Quốc hội kỳ vọng.
Cuộc chiến ở Ukraine, suy thoái kinh tế ở Trung Quốc, lãi suất quốc tế tăng và đồng USD mạnh lên, nguy cơ suy thoái kinh tế ngày càng tăng ở châu Âu có thể ảnh hưởng đến nhu cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam và làm tăng rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh đó, rủi ro cũng đến từ trong nước, đặc biệt trên thị trường tài chính, vốn rất nhạy cảm với những điều kiện thay đổi nhanh chóng trong lĩnh vực bất động sản. Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu sẽ ngày càng đè nặng lên sản xuất nông nghiệp, sức khỏe và sự an khang của các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng, lũ lụt, hạn hán và bão lớn. Do vậy, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam khuyến nghị, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam sẽ cần cảnh giác, điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ kịp thời với tình hình thay đổi trên toàn cầu.
Với mức tăng trưởng mạnh cho đến tháng 9/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2022 tăng từ mức 6% lên 7 - 7,5%. Tuy nhiên, do cầu bên ngoài chậm lại và điều kiện tài chính thắt chặt hơn, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng trong năm 2023 của Việt Nam xuống 5,8%. Lạm phát dự kiến sẽ tăng lên trước khi dần trở lại dưới mức 4%.
Trưởng đại diện của IMF tại Việt Nam và Lào cho rằng, trước những thách thức đã được cảnh báo, các chính sách cần được tính toán, phối hợp và truyền thông một cách cẩn trọng để quản lý những rủi ro tiêu cực và giảm bớt sự đánh đổi chính sách, đặc biệt là sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát. Trong bối cảnh hiện nay, chính sách tiền tệ cần tập trung vào ổn định giá cả. Nên cân nhắc vị thế chính sách tiền tệ thắt chặt hơn nếu áp lực lạm phát gia tăng. “Bảo vệ sự ổn định tài chính vẫn nên là ưu tiên hàng đầu”, chuyên gia IMF khuyến nghị. Mặc dù chất lượng tài sản ngân hàng đã được cải thiện kể từ cuối năm 2021, rủi ro tiêu cực đối với tăng trưởng tăng lên, căng thẳng trên thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp, điều kiện thanh khoản ngân hàng thắt chặt hơn và lãi suất cao đòi hòi phải giám sát chặt chẽ rủi ro ổn định tài chính. Các chính sách tài khóa cần linh hoạt và nhắm trúng đối tượng hơn nếu áp lực lạm phát tăng lên.
Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) đưa ra 2 kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2023. Kịch bản 1 là tăng trưởng kinh tế ở mức 6 - 6,2% nếu các yếu tố rủi ro lấn át xu hướng phục hồi đã thiết lập trong năm 2022. Kịch bản 2 là tăng trưởng kinh tế đạt 6,5 - 6,7% trong điều kiện quá trình phục hồi diễn ra thuận lợi hơn, các tác động từ bối cảnh quốc tế không quá lớn.
WB: Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều lực cản
Báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 11/2022, WB cho biết, tăng trưởng sản xuất công nghiệp có dấu hiệu chững lại do sức cầu bên ngoài yếu. Chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng 10 chỉ tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước - trong khi chỉ số này ở mức tăng 10,3% trong tháng 9. Tăng trưởng giảm tốc có thể do hiệu ứng xuất phát điểm thấp đang yếu dần. Tuy nhiên, sức cầu yếu đi bên ngoài cũng có thể là nguyên nhân quan trọng khi tăng trưởng tại EU, Hoa Kỳ và Trung Quốc đang chậm lại. Chỉ số quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực chế tạo - chế biến giảm từ 52,5% trong tháng 9 xuống 50,6% trong tháng 10, là mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021, càng chứng tỏ tăng trưởng trong lĩnh vực chế tạo - chế biến đang giảm tốc.
Báo cáo của WB cho biết, doanh số bán lẻ tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn. So với cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tăng 17,1% trong tháng 10 so với mức tăng 32,3% của tháng 9. Tăng trưởng giảm mạnh một mặt do hiệu ứng xuất phát điểm thấp đang mờ dần, giống như đối với chỉ số sản xuất công nghiệp; mặt khác, điều này phản ánh nhu cầu trong nước đang yếu đi do quá trình hồi phục tiêu dùng trong ba quý đầu năm dường như đang yếu dần trong điều kiện lạm phát. Doanh số bán lẻ hàng hóa tăng 9,6%, thấp hơn so với tốc độ tăng trước đại dịch ở mức khoảng 12% so với cùng kỳ năm 2021. Tốc độ tăng doanh số dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành đã từng vượt trên cả mức trước đại dịch trong tháng 8/2022, nhưng hiện chỉ đạt 12% (so với cùng kỳ năm 2021), nghĩa là thấp hơn so với tháng 10/2019.
Mặc dù cán cân thương mại ghi nhận thặng dư ở mức 2,3 tỷ USD trong tháng 10 (tháng thứ 5 liên tiếp xuất siêu), nhưng tăng trưởng xuất khẩu lại giảm từ 10,3% trong tháng 9 xuống còn 4,8% trong tháng 10 (so với cùng kỳ), là tốc độ tăng thấp nhất kể từ tháng 10/2021. Lý giải tăng trưởng xuất khẩu giảm tốc, báo cáo của WB cho biết, một phần là do sức cầu bên ngoài yếu đi.
Theo WB, lạm phát cơ bản và toàn phần tăng tốc. Cụ thể, lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng tốc từ 3,9% trong tháng 9 lên 4,3% trong tháng 10, lần đầu tiên vượt chỉ tiêu 4% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ tháng 4/2020. Yếu tố đóng góp của lĩnh vực vận tải tiếp tục giảm mạnh do giá xăng dầu trong tháng 10 giảm lần lượt 6,0% (so cùng kỳ) và 0,6% (so tháng trước), thấp hơn 2,1% so với năm trước.