Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh phát biểu khai mạc Hội thảo
Sức ảnh hưởng của các FTA đến kinh tế Việt Nam
Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ; năm 2006 trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); và nếu tính cả AFTA (bây giờ là ATIGA), Việt Nam đã tham gia tổng cộng 14 FTA, cả song phương và đa phương.
Tại Hội thảo “Phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các hiệp định thương mại tự do: Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam” diễn ra ngày 27/11 tại TP. HCM do Trung tâm Hỗ trợ hội nhập quốc tế TP. HCM phối hợp cùng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương tổ chức, Thứ trưởng Bộ Công Thương, ông Trần Quốc Khánh chia sẻ: “Nếu như kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2001 (khi ký kết thực hiện Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ) mới đạt hơn 30 tỷ USD thì sau 6 năm, năm 2007 (khi gia nhập WTO), con số này đã là 100 tỷ USD; đến năm 2011 đạt 200 tỷ USD và cho tới năm 2019 vừa qua, con số này đã là 517 tỷ USD. Trong cùng giai đoạn, xuất khẩu đã tăng từ mức 15 tỷ USD vào năm 2001 lên gần 50 tỷ USD năm 2007, gần 100 tỷ USD vào năm 2011 và dự kiến đạt 270 tỷ USD trong năm nay. Với kết quả này, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 trên thế giới”.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, như báo cáo giám sát của Quốc hội đã chỉ ra, các FTA đã góp phần thay đổi căn bản thể chế kinh tế nói riêng và nền kinh tế của Việt Nam nói chung. Qua các năm, quy mô xuất khẩu Việt Nam tăng nhiều lần cho thấy năng lực của nhiều ngành sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam đã cao hơn, hàng hóa của nước ta đã thâm nhập được và cạnh tranh sòng phẳng trên nhiều thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu cũng vào nhiều hơn và cạnh tranh khá quyết liệt với thị trường trong nước.
Để đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế và đưa ra các cam kết về xóa bỏ hàng rào thuế, hàng rào phi thuế, các nhà đàm phán của các thành viên WTO trước đây, hay các hiệp định FTA hiện nay, đã thiết kế một công cụ là PVTM. PVTM là hệ quả tất yếu của việc các nước mở cửa thị trường. Để chủ động ứng phó tốt và giảm tối đa các tác động bất lợi thì các doanh nghiệp cần nắm chắc quy định về PVTM trong các FTA, ý thức toàn diện và sâu sắc về các công cụ PVTM có trong tay.
Tác động của PVTM đến hàng hóa xuất khẩu Việt Nam
Hiện nay, biện pháp PVTM gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đang được nhiều nước trên thế giới lựa chọn nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Theo thống kê của WTO, 25 năm qua kể từ khi WTO ra đời, các nước đã khởi xướng điều tra tổng cộng 5.944 vụ chống bán phá giá, 577 vụ chống trợ cấp và 377 vụ việc tự vệ, trung bình mỗi năm hơn 270 vụ.
Trong những năm gần đây, số lượng các vụ việc PVTM của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Nếu trong giai đoạn 2005 - 2010 có 21 vụ việc thì con số trong giai đoạn từ 2016 đến tháng 11/2020 là 99 vụ. Đặc biệt, số lượng các vụ việc chống lẩn tránh nhằm vào hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đang có dấu hiệu tăng lên do một vài nước cho rằng hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sử dụng nguyên liệu chính được nhập khẩu từ những khu vực đang bị họ áp dụng biện pháp PVTM (như thép, nhôm,...).
Lý do chính của xu thế gia tăng các vụ việc PVTM đánh vào hàng xuất khẩu Việt Nam là do xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng nhanh, nhờ các tác động tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các hiệp định FTA. Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã tạo ra sức ép cạnh tranh lớn tại thị trường nước nhập khẩu, khiến ngành sản xuất tại các nước này đề nghị Chính phủ họ điều tra áp dụng các biện pháp PVTM.
PVTM là nội dung tương đối mới với Việt Nam, nhưng trong những năm gần đây, Việt Nam đã bắt đầu sử dụng công cụ PVTM để thiết lập môi trường cạnh tranh, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của ngành sản xuất trong nước. Tính đến tháng 11/2020, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra 21 vụ PVTM, gồm 13 vụ chống bán phá giá, 01 vụ chống trợ cấp, 06 vụ tự vệ mà 01 vụ chống lẩn tránh biện pháp tự vệ. Trong đó Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định áp dụng 07 biện pháp chống bán phá giá, 05 biện pháp tự vệ và 01 biện pháp chống lẩn tránh biện pháp tự vệ. Các biện pháp này đã góp phần lập lại môi trường cạnh tranh công bằng và bảo vệ được lợi ích chính đáng của nhiều ngành sản xuất trong nước.
Biện pháp PVTM là để bảo vệ cho một ngành sản xuất chứ không riêng một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp cụ thể. Do vậy, các cơ quan điều tra cần có đầy đủ thông tin từ tất cả các thành phần liên quan trong ngành sản xuất đó (nhà xuất khẩu, nhập khẩu, nhà cung cấp, người tiêu dùng,...) để có thể đưa ra quyết định khách quan và chính xác nhất về vụ việc. Tuy nhiên, hiện nay, đa phần các doanh nghiệp không cung cấp đầy đủ thông tin, cung cấp chậm trễ, hoặc chỉ “kêu cứu” sau khi cơ quan quản lý kết thúc quá trình điều tra và đưa ra kết luận cuối cùng.
Theo bà Phan Mai Quỳnh, Phó Trưởng phòng Điều tra thiệt hại và Tự vệ Cục Phòng vệ thương mại: “Để cơ quan quản lý có thể hỗ trợ được doanh nghiệp một cách tối ưu nhất trước các vụ việc PVTM, ngoài việc các doanh nghiệp cần chủ động trang bị những kiến thức cơ bản pháp luật về PVTM, quy định PVTM trong các FTA giữa Việt Nam và đối tác để nắm rõ các nghĩa vụ và quyền lợi của mình thì các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cần tham gia một cách đầy đủ, có trách nhiệm và phối hợp chặt chẽ với Cục PVTM để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của mình. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần thường xuyên, kịp thời thông tin với Bộ Công Thương để cơ quan quản lý Nhà nước kịp thời tư vấn, đảm bảo phát triển ổn định bền vững”.