Thị trường tài chính xanh quy mô còn khiêm tốn
Thế giới ngày càng chứng kiến nhiều kỷ lục về nhiệt độ cực đoan, cũng như tình trạng thiên tai lan rộng do biến đổi khí hậu gây ra - từ cháy rừng đến lũ lụt và sự tàn phá của những cơn bão.
Với địa lý đặc biệt, Việt Nam cũng đứng trước những nguy cơ rất lớn về thảm họa thiên nhiên, từ bão lũ đến ngập úng, và tất cả đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế cũng như đời sống của hàng triệu người dân. Thống kê cho thấy những thiệt hại do thiên tai gây ra đã gia tăng đáng kể, chiếm khoảng 1,5% GDP hàng năm. Theo đó, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã trở thành định hướng trong chiến lược phát triển kinh tế không chỉ của Việt Nam mà của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tài chính xanh được xem là một phương thức quan trọng mà Việt Nam và các quốc gia trên thế giới đang chú trọng để hướng đến tăng trưởng xanh và bền vững. 1.000 tỉ USD mỗi năm là con số mà từ nay đến năm 2035, mà các nền kinh tế trên thế giới cần để giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây là mục tiêu tài chính khí hậu đang được đặt ra trong đàm phán tại Hội nghị lần thứ 29 các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP29).
Còn theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ đô la Mỹ cho giai đoạn 2022-2040 để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh bao trùm gắn với chống biến đổi khí hậu, tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm, trong đó 65% nhu cầu này sẽ phải được huy động ngoài khu vực công. Đặc biệt, với cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050, giảm phát thải khí methane vào năm 2030, nhu cầu đầu tư của Việt Nam vào các dự án giảm thiểu tác động đến môi trường sẽ ngày càng lớn.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành và triển khai Kế hoạch hành động của ngành Tài chính về tăng trưởng xanh như xây dựng, hoàn thiện các chính sách tài chính liên quan, trọng tâm là phát triển thị trường vốn xanh và các sản phẩm tài chính xanh. Bộ Tài chính cũng đang xây dựng Đề án Phát triển thị
trường carbon tại Việt Nam trên cơ sở phối hợp với Bộ Tài nguyên - Môi trường và các cơ quan có liên quan. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2025, Việt Nam sẽ bắt đầu thí điểm và đến năm 2028 vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon.
Tuy nhiên, tài chính xanh đã được triển khai tại Việt Nam khoảng 10 năm nhưng quy mô còn khiêm tốn (tín dụng xanh chỉ chiếm 4,5% tổng dư nợ, trái phiếu xanh còn rất ít…). Điều này đòi hỏi phải có các cơ chế, chính sách và giải pháp huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính xanh, khuyến khích dòng vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực xanh.
Giải pháp khơi thông dòng vốn xanh
Tại Hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Phương Nam, Đánh giá viên quốc tế của UNFCCC kiêm Giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Dịch vụ Đổi mới Khí hậu KLINOVA đã đưa ra các giải pháp khơi dòng vốn xanh. Trong đó, các định chế tài chính cần hỗ trợ kĩ thuật cho các ngân hàng trong chuyển đổi Ngân hàng xanh và xây dựng các cơ chế, quy trình triển khai tín dụng xanh; cung cấp nguồn vốn xanh.
Đối với Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài nguyên & Môi trường hoàn thiện và ban hành Danh mục phân loại xanh quốc gia nhằm tạo cơ chế pháp lý rõ ràng, thuận lợi để triển khai các công cụ kinh tế hỗ trợ hoạt động tài trợ xanh của các tổ chức tín dụng (TCTD); Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực xây dựng, hoạch định và triển khai chính sách tín dụng xanh, tài chính xanh;
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hướng dẫn thực hiện ngân hàng xanh, tín dụng xanh cho các TCTD; Đàm phán tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước để triển khai các hoạt động tín dụng xanh; xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực và dự thảo điều khoản tham chiếu hỗ trợ thực hiện JETP.
Còn Ngân hàng thương mại cần hoàn thiện và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh phù hợp với nhu cầu của từng loại hình doanh nghiệp; Huy động nguồn vốn dài hạn cho các dự án xanh bền vững thông qua phát hành trái phiếu xanh phù hợp với thông lệ quốc tế;
Xây dựng khung quản lý rủi ro ESG tuân theo các tài liệu tham khảo quốc tế và các công ty tư vấn độc lập nước ngoài; Nâng cao năng lực trong thẩm định, đánh giá và quản lí rủi ro môi trường cũng như báo cáo thông tin trong hoạt động cấp tín dụng.